Quyết định giám đốc thẩm số 24/2005/ds-gđt ngày 16-9-2005 về vụ án “tranh chấp quyền sử dụng đất”

Chủ đề   RSS   
  • #264964 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số 24/2005/ds-gđt ngày 16-9-2005 về vụ án “tranh chấp quyền sử dụng đất”

    Số hiệu

    24/2005/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số24/2005/ds-gđt ngày 16-9-2005 về vụ án “tranh chấp quyền sử dụng đất”

    Ngày ban hành

    16/09/2005

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    QUYếT ĐịNH GIÁM ĐốC THẩM Số24/2005/DS-GĐT

    NGÀY 16-9-2005 Về Vụ ÁN “TRANH CHấP QUYềN Sử DụNG ĐấT”

     

    Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

    ...

    Ngày 16 tháng 9 năm 2005, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên Toà giám đốc thẩm xết xử vụ án dân sự về việc “tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Bà Thần Thị Thoa, sinh năm 1952;

    Trú tại: S 19 khu phố chợ Hoàng Hoa Thám, đuờng Hoàng Hoa Thám, phuờng 13, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh;

    Bị đơn: Ông Liên Di Khải, sinh năm 1945;

                  Bà Nguyễn Thị Hồng Tâm, sinh năm 1953;

    Tất cả bị đơn đều trú tại: 328 Nguyễn Đình Chi, phường 9, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh;

    Bà Nguyễn Thị Hồng Tâm ủy quyền cho ông Trần Công Khải, sinh 
    năm 1960;

    Trú tại: 16/30 Nguyễn Thiện Thuật, phường 2, quận 3, thành phố Hồ 
    Chí Minh;

    Người có nguyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. Bà Nguyễn Thị Của, sinh năm 1960;

    2. Ông Bùi Văn Sáng; sinh năm 1953;

    Cả hai đương sự đều trú tại: 281/38 Lý Trường Kiệt, phường 15 quận 11, thành phố Hồ Chí Minh;

    3. Ông Lê Công Phước, sinh năm 1948;

    Trú tại: S 19 khu phố chợ Hoàng Hoa Thám, đường Hoàng Hoa Thám, phường 13, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh;

    4. Ông Lê Hoàng Phong, sinh năm 1968;

    Trú tại: 222-2360 Dondas ST.Wtoronto on MBP-4B2 Canada.

    Nhận thấy:

     Bà Trần Thị Thoa trình bày: Ngày 15-9-1991 bà có thỏa thuận hùn vốn với ông Liên Di Khải để chuyển nhượng của ông Phạm Văn Yên và bà Phạm Thị Hiện 6400m2 đất thuộc ấp 5, xã Bình Trị Đông, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Hai bên thỏa thuận khi giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được thống nhất mỗi bên sẽ bỏ ra 1/2 tiền chuyền nhượng đất. Trước mắt bà giao cho ông Khải 50.000.000 đồng, ông Khải đứng tên chuyển nhượng đất, sau khi hoàn tất quyết định giao đất sẽ tiếp tục phân chia phần hùn và nhận thêm tiền phát sinh và tiền còn lại. Tháng 12/1991 ông Khải báo cho bà biết giá chuyển nhượng đất là 66.000.000 đồng tương đương 16,3 lượng vàng 24K. Ông Khải dẫn bà đi xem đất và đề nghị tiền chuyển nhượng đất của bà là 50.000.000 đồng còn ông Khải là 16.000.000 đồng. Năm 1992 cơ quan chức năng yêu cầu nộp 72.441.600 đồng tiền sử dụng đất thì bà nộp 40.000.000 đồng. Năm 1997 ông Khải bận buôn bán nên giao cho bà liên hệ với các cơ quan chức năng để xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, ngày 11-12-1997 ông Khải đã làm hợp đồng ủy quyền để bà đi làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất sang tên ông Khải. Cuối năm 2000 bà bị bệnh không theo dõi thường xuyên việc làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất. Do đó, tháng 12/2000 bà có đến Uỷ ban nhân dân xã Bình Trị Đông hỏi về thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì mới biết ngày 4-10-2000 ông Khải được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đã làm thủ tục chuyển nhượng đất cho bà Nguyễn Thị Của.

    Bà Thoa yêu cầu huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Khải và bà Của, đồng thời chia đất theo tỷ lệ phần hùn (của bà là 50.000.000 đồng trên 66.000.000 đồng, còn ông Khải là 16.000.000 đồng trên 66.000.000 đồng). Các chi phí liên quan đến thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà đồng ý trả lại cho ông Khải.

    Ông Liên Di Khải trình bày: Ngày 20-11-1991 ông mua của ông Phạm Văn Yên, bà Phạm Thị Hiệm 6.616m2 đất thuộc thửa 51-52 tờ bản đồ số 3 ấp 5, xã Bình Trị Đông, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh với giá là 28 lượng vàng 24K, (giá vàng lúc đó là 4.200.000 đồng/lượng) nên giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất ghi giá chuyển nhượng 66.000.000 đồng. Năm 1992 ông nộp 72.411.600 đồng tiền sử dụng đất để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng đến năm 1994, Sở địa chính thành phố thông báo ông phải nộp thêm 465.696.000 đồng tiền sử dụng đất nữa. Bà Nguyễn Kim Thu là em họ của ông giới thiệu bà Thoa làm thủ tục công nhân quyền sử dụng đất cho ông. Ngày 11-12-1997 ông làm giấy ủy quyền cho bà Thoa làm thủ tục hợp thức hóa quyền sử dụng đất. Ông và bà Thoa thỏa thuận bà Thoa làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông để ông không phải đóng khoản tiền sử dụng đất là 465.696.000 đồng thì bà Thoa được hưởng 300.000.000 đồng. Ông Khải đã đưa cho bà Thoa 4 lần tổng cộng là 250.000.000 đồng để bà Thoa làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông. Ngày 15-9-1998 ông có viết giấy hùn mua đất với bà Thoa và nhận của bà thoa 50.000.000 đồng, để bà Thoa dễ dàng trong khi xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông, nhưng do thời gian xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất kéo dài nên ông đã tự đi làm thủ tục. Ngày 12-9-2000 ông đã đóng thêm 274.950.000 đồng tiền sử dụng đất và 2.749.500 đồng lệ phí trước bạ. Ngày 04-10-2000 ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất là 4.307 m2 phần còn lại trừ lộ giới.

    Ngày 05-10-2000 ông làm thủ tục chuyển nhượng cho bà Nguyễn thị Của diện tích đất nêu trên với giá 4.250.000.000 đồng. Ông Khải xác định không có hùn hạp mua đất với bà Thoa, không nhận của bà Thoa 50.000.000 đồng tiền hùn vốn và 40.000.000 đồng tiền sử dụng đất nên ông Khải không đồng ý theo yêu cầu chia đất của bà Thoa.

    Bà Nguyễn Thị Của trình bày: Tháng 3/2000 bà có đặt cọc mua của ông Liên Di Khải 4.307 m2 đất tại xã Bình Trị Đông, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 05-10-2000 hai bên chính thức ký hợp đồng chuyển nhượng đất, giá chuyển nhượng là 4.250.000.000 đồng, bà đã thanh toán gần hết cho ông Khải, chỉ còn giữ 100 lượng vàng SJC chờ xong thủ tục chuyển nhượng đất bà sẽ giao nốt cho ông Khải. Bà yêu cầu được công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất với ông Khải.

    Tại bản bán dân sự sơ thẩm số 84/DSST ngày 04-10-2001, Toà án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    Chấp nhập yêu cầu đòi chia 3.260m2 đất theo tỷ lệ góp vốn và huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 05-10-2000 của bà Trần Thị Thoa.

    Bác yêu cầu không đồng ý chia đất và đòi 250.000.000 đồng của ông Liên Di Khải.

    Bác yêu cầu có đưa 40.000.000 đồng cho ông Khải năm 1992 để đóng tiền quyền sử dụng đất của bà Trần Thị Thoa.

    Bác yêu cầu của bà Nguyễn Thị Của xin tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

    Huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất 4.307m2 đất tại thửa 213, bản đồ số 13, xã Bình Trị Đông, huyện Bình Chánh ký ngày 05-10-2000 giữa ông Liên Di Khải với bà Nguyễn Thị Của.

    Buộc ông Khải chia cho bà Trần Thị Thoa 3.260m2 đất tại thửa 213, tờ bản đồ số 13, xã Bình Trị Đông, huyện Bình chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Ông Khải được quyền sử dụng 1.047m2 đất còn lại. Việc phân chia đất tại thửa 213 tờ bản đồ số 13, xã Bình Trị Đông được thực hiện theo cách kéo thẳng từ mặt tiền đường quốc lộ 1A ra phía sau sao cho bà Thoa và ông Khải đều có mặt tiền và mặt hậu. Riêng phần đất thuộc phạm vi lộ giới cũng chia theo cách lấy ranh đất giữa bà Thoa và ông Khải kéo thẳng ra phía mặt đường quốc lộ 1A để bà Thoa và ông Khải sử dụng.

    Bà Trần Thị Thoa có trách nhiệm liên hệ với các cơ quan chức năng để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 3.260m2 đất thuộc một phần thửa 213, tờ bản đồ số 13, xã Bình Trị Đông, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh theo quy định của pháp luật.

    Buộc bà Trần Thị Thoa trả lại cho ông Liên Di Khả số tiền thuế phát sinh 265.056.800 đồng.

    Ông Liên Di Khải có trách nhiệm trả lại cho bà Nguyễn Thị Của số tiền đã nhận. Số tiền này nếu phát sinh tranh chấp sẽ được giải quyết ở một vụ án khác khi có yêu cầu.

    Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí theo quy định của pháp luật.

    Ngày 15-10-2001 bà Nguyễn Thị Của có đơn kháng cáo.

    Ngày 17-10-2001 ông Liên Di Khải kháng cáo.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 1034/DSPT ngày 08-7-2002, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    Về hình thức: Chấp nhận đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị Của và ông Liên Di Khải.

    Về nội dung: Huỷ bản án dân dự sơ thẩm số 84/DSST ngày 04-10-2001 của Toà án nhân dân huyện Bình Chánh xử việc “tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Trần Thị Thoa với bị đơn là ông Liên Di Khải, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Lê Công Phước, ông Trần Lập, bà Nguyễn Thị Của. Giao hồ sơ về cấp sơ thẩm xét xử lại theo trình tự sơ thẩm để triệu tập bà Nguyễn Thị Hồng Tâm, ông Bùi Văn Sáng tham gia vụ án.

    Ông Liên Di Khải, bà Nguyễn Thị Của được nhận lại tạm ứng án phí kháng cáo theo biên lai đã thu.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 693/DSST ngày 15-4-2004, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    - Chấp nhận 1 phần yêu cầu của bà Trần Thị Thoa.

    - Công nhận bà Trần Thị Thoa và ông Liên Di Khải có hùn tiền cùng mua đất tại ấp 5, xã Bình Trị Đông, huyện Bình Chánh theo giấy hùn ngày 15-9-1991.

    - Xác nhận bà Trần Thị Thoa có phần hùn theo tỷ lệ góp vốn tương đương 3.260m2, ông Liên Di Khải là có phần hùn tỷ lệ góp vốn tương đương với 1.047mtrên tổng diện tích đất 4.307 m2 tại ấp 5, xã Bình Trị Đông, huyện Bình Chánh thuộc thửa 213, tờ bản đồ số 13 do ông Liên Di Khải đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 04-10-2000.

    - Bác yêu cầu của ông Liên Di Khải, bà Nguyễn Thị Hồng Tâm (do ông Trần Công Khải đại diện) yêu cầu xác định không có việc hùn vốn mua đất giữa bà Trần Thị Thoa và ông Liên Di Khải.

    - Bác yêu cầu của bà Trần Thị Thoa, ông Lê Công Phước yêu cầu xác định bà Trần Thị Thoa có đưa cho ông Liên Di Khải 40.000.000 đồng vào năm 1992 để ông Liên Di Khải đóng thuế sử dụng đất.

    - Bác yêu cầu của ông Liên Di Khải, bà Nguyễn Thị Hồng Tâm và ông Bùi Văn Sáng, bà Nguyễn Thị Của yêu cầu công nhận việc sang nhượng đất giữa ông Liên Di Khải và bà Nguyễn Thị Của vào ngày 05-10-2000.

    - Tuyên bố huỷ hợp đồng chuyển nhượng đất vô hiệu tại ấp 5, xã Bình Đông, huyện Bình Chánh thuộc thửa 213, tờ bản đồ số 13 được ký 
    ngày 05-10-2000 giữa bà Nguyễn Thị Của và ông Liên Di Khải.

    - Buộc ông Liên Di Khải, bà Nguyễn Thị Hồng Tâm chia cho bà Trần Thị Thoa, ông Lê Công Phước sử dụng diện tích 3.260m2 và ông Liên Di Khải, bà Nguyễn Thị Hồng Tâm được sử dụng diện tích còn lại là 1.047m2 tại ấp 5 Bình Trị Đông, huyện Bình Chánh thuộc thửa 213, tờ bản đồ số 13, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00133/la/QSDĐ/3375/UB ngày 04-10-2000. Việc phân chia đất được thực hiện theo cách kéo thẳng từ mặt tiền quốc lộ 1A ra phía sau, sao cho bà Thoa, ông Phước và ông Liên Di Khải, bà Tâm đều có mặt tiền và mặt hậu. Riêng đất thuộc phạn vi lộ giới cũng chia theo cách lấy ranh đất của mỗi bên kéo thẳng ra phía mặt đường 1A để phía bên bà Thoa, ông Phước và phía ông Liên Di Khải, bà Tâm sử dụng.

    - Bà Thoa, ông Phước có trách nhiệm hoàn trả ông Liên Di Khải, bà Tâm số tiền đóng thuế phát sinh là 265.056.800 đồng và tiền nhận của ông Liên Di Khải là 250.00.000 đồng. Tổng cộng là 515.056.800 đồng.

    - Bác yêu cầu của ông Phước, bà Thoa, ông Lê Hoàng Phong yêu cầu xác nhận số tiền 250.000.000 đồng ông Liên Di Khải giao cho bà Thoa là tiền do ông Phong gửi cho bà Thoa theo đường chuyển ngân không hợp pháp.

    - Bà Thoa, ông Phước có trách nhiệm hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Của, ông Bùi Văn Sáng tiền san lấp đất tại ấp 5, xã Bình Trị Đông, huyện Bình Chánh thuộc thửa 213, tờ bản đồ số 13 số tiền là 1.211.200.000 đồng.

    - Ông Khải, bà Tâm có trách nhiệm trả cho vợ chồng ông Sáng, bà Của số tiền đã nhận sang nhượng đất trị giá là 580,71 lượng vàng SJC và tiền san lấp đất là 388.800.000 đồng.

    Các bên thi hành việc giao nhận tiền, vàng và đất ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật tại Phòng thi hành án thành phố Hồ Chí Minh.

    - Sau khi bà Thoa, ông Phước hoàn đủ tiền cho ông Khải, bà Tâm và ông Sáng, bà Của thì có trách nhiệm liên hệ với cơ quan chức năng để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 3.260m2 tại ấp 5, xã Bình Trị Đông, huyện Bình Chánh thuộc thửa số 213, tờ bản đồ số 13 theo quy định của pháp luật.

    - Tiếp tục duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời 
    số03/QĐ-KCTT ngày 14-6-2001 của Toà án nhân dân huyện Bình Chánh.

    Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí theo quy định của pháp luật.

    - Ngày 16-4-2004 ông Liên Di Khải và bà Nguyền Thị Hồng Tâm 
    kháng cáo.

    - Ngày 19-4-2004 ông Bùi Văn Sáng, bà Nguyễn Thị Của kháng cáo.

    - Ngày 20-4-2004 bà Trần Thị Thoa kháng cáo.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 345/DSPT ngày 15-11-2004, Toà phúc thẩm, Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    * Về hình thức:

    - Chấp nhận đơn kháng cáo hợp lệ của các bên đương sự.

    - Chấp nhận việc rút một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn (về số tiền 40.000.000 đồng đưa đóng thế và về yêu cầu định giá lại tiền san lấp mặt bằng)

    * Về nội dung:

    Sửa một phần bản án sơ thẩm, xử:

    1) + Công nhận bà Trần Thị Thoa có hùn tiền cùng ông Liên Di Khải sang nhượng đất tại ấp 5, xã Bình Trị Đông, huyện Bình Chánh (Theo giấy tay ngày 15-9-1991).

    + Xác định bà Thoa có phần hùn theo tỷ lệ góp vốn tương đương với 3.260 m2, ông Khải có phần hùn theo tỷ lệ góp vốn tương đương với 1.047m2 trên tổng diện tích 4.307 m2 đất tọa lạc tại ấp 5, xã Bình Trị Đông, huyện Bình Chánh thuộc thửa 213, tờ bản đồ số 13 do ông Liên Di Khải đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 04-10-2000.

    2) + Xác định hợp đồng chuyển nhượng đất tại ấp 5, xã Bình Trị Đông, huyện Bình Chánh thuộc thửa 213, tờ bản đồ số 13 ký ngày 05-10-2000 giữa bà Nguyễn Thị Của và ông Liên Di Khải vô hiệu một phần (đối với phần hùn của bà Thoa là diện tích 3.260 m2 đất).

    + Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Liên Di Khải, bà Nguyễn Thị Hồng Tâm và ông Bùi Văn Sáng, bà Nguyễn Thị Của về việc tiếp tục sang nhượng diện tích 1.047 m2 đất (phần hùn của ông Khải) trên tổng diện tích đất nêu trên.

    3) + Buộc ông Liên Di Khải, bà Nguyễn Thị Hồng Tâm phải chia cho bà Thoa, ông Phước sử dụng diện tích đất 3.260 m2 và giao cho ông Sáng, bà Của được sử dụng diện tích đất còn lại 1.047 m2 tại ấp 5, xã Bình Trị Đông, huyện Bình Chánh, thuộc thửa 213, tờ bản đồ số 13 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00133/la/QSDĐ/3375/UB ngày 4-10-2000.

    Việc phân chia đất được thực hiện theo cách kéo thẳng từ mặt tiền quốc lộ 1A ra phía sau; sao cho bà Thoa, ông Phước và ông Sáng, bà Của đều có mặt tiền và mặt hậu. Riêng diện tích đất thuộc phạm vi lộ giới cũng tạm chia theo cách lấy ranh đất của mỗi bên kéo thẳng ra phía mặt đường 1A để hai bên có quyền tạm sử dụng (Các bên phải tuân thủ theo quy định của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi thu hồi, giải tỏa phần đất lộ giới này).

    4) + Bà Thoa, ông Phước có trách nhiệm hoàn trả cho ông Khải, bà Tâm số tiền đóng thuế phát sinh là 265.056.800 đồng và trả cho ông Khải số tiền đã nhận là 250.000.000 đồng. Tổng cộng là 515.056.800 (Năm trăm mười lăm triệu, không trăm năm mươi sáu ngàn, tám trăm đồng).

    + Bác yêu cầu của ông Phước, bà Thoa, ông Lê hoàng Phong yêu cầu xác nhận số tiền 250.000.000 đồng, ông Liên Di Khải giao cho bà Thoa là tiền do ông Phong gửi cho bà Thoa theo đưòng chuyển ngân không hợp pháp.

    5)+ Ông Khải bà Tâm có trách nhiệm trả lại cho ông Sáng, bà Của số tiền đã sang nhượng diện tích đất 3.260m2 (Phần đất của bà Thoa) trị giá tương đương 384,64 lượng vàng SJC.

    6)+ Đối với ông Bùi Văn Sáng và bà Nguyễn Thị Của thì ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật, còn đối với nguyên đơn thì sau khi bà Thoa, ông Phước hoàn đủ tiền cho ông Liên Di Khải, bà Tâm và ông Sáng, bà Của thì các bên đương sự là bà Thoa, ông Phước và ông Sáng, bà Của được quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định chung trên diện tích được xác định của mỗi bên là: bà Thoa, ông Phước 3.260m2; ông Sáng, bà Của 1.047m2, tọa lạc tại ấp 5, xã Bình Trị Đông, huyện Bình Chánh thuộc thửa số 213, tờ bản đồ số 13.

    Ngoài ra, Toà án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí theo quy định của pháp luật.

    Sau khi có bản phúc thẩm, ông Khải có nhiều đơn khiếu nại.

    Tại Quyết định số63/2005/DS-KN ngày 10-6-2005, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị đối với bản án dân sự phúc thẩm số 345/DSPT 
    ngày 15-11-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh theo hướng đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án phúc thẩm nêu trên giao hồ sơ cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật, với lý do: Toà án các cấp phân chia đất và số tiền các bên đóng góp chưa phù hợp với thực tế khách quan của vụ án.

    Tại phiên Toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

    xét thấy:

    Bà Trần Thị Thoa khởi kiện cho rằng giữa bà và ông Liên Di Khải hùn mua 6.400m2 đất (diện tích đo đạc thực tế là 6.900m2 đất), tại ấp 5, xã Bình Trị Đông huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Ông Liên Di Khải không thừa nhận có việc hùn mua đất với bà Trần Thị Thoa và cho rằng ông chỉ thỏa thuận với bà Thoa là bà Thoa đi lo thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông để ông không phải đóng khoản tiền thuế chuyển nhượng quyền sử dụng đất là 465.696.000 đồng thì ông sẽ cho bà Thoa 300.000.000 đồng; ông đã đưa cho bà Thoa 250.000.000 đồng và viết giấy có nội dung thỏa thuận hợp tác mua đất với bà Thoa đề ngày 15-9-1998, để bà Thoa dễ dàng trong khi xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông, chứ thực ra ông không nhận 50.000.000 đồng của bà Thoa. Tuy nhiên, căn cứ vào kết luận giám định số 148/KLGĐ ngày 29-6-2001 của Tổ chức giám định kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh thì chữ số 1991 trong giấy thỏa thuận hợp tác mua đất bị chữa thành 1998. Hơn nữa giấy thỏa thuận hợp tác mua đất đề ngày 15-9-1991 do chính ông Khải viết, nội dung của giấy này thể hiện giữa bà Thoa và ông Khải mua chung lô đất của ông Yên bà Hiệm, ông Khải đã nhận của bà Thoa 50.000.000 đồng “trước để làm bằng”. Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm không chấp nhận lời khai của ông Khải là mua đất riêng và xác định giữa bà Thoa và ông Khải có việc thỏa thuận hợp tác mua đất chung là đúng.

    Do giấy thỏa thuận hợp tác mua đất giữa bà Thoa và ông Khải đề 
    ngày 15-9-1991 không nêu tỷ lệ góp vốn mua đất của mỗi bên nhưng có thỏa thuận: “sau khi hoàn tất quyết định giao đất sẽ tiếp tục phân chia phần hùn và sẽ nhận thêm số tiền phát sinh và còn lại”. Ngày 20-11-1991 ông Khải đứng tên ký hợp đồng mùa lô đất của ông Yên, bà Hiệm giá 66.000.000 đồng và ông Khải đã trả đủ cho ông Yên, bà Hiệm số tiền này và từ năm 1992 đến khi nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông Khải đã phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng và thuế trước bạ là 350.141.100 đồng, trong đó có số tiền ông Khải khai nộp năm 1992 là 72.441.600 đồng. Tại biên bản hòa giải không thành ngày 26-3-2004, bà Thoa khai: “hai bên thỏa thuận mỗi bên bỏ ra 1/2 tiền chuyển nhượng đất... sau khi hoàn tất quyết định giao đất sẽ tiếp tục phân chia phần hùn và nhận thêm tiền phát sinh và còn lại”. Vì vậy, Toà án các cấp phải thu thập thêm chứng cứ và phải thẩm vấn thật kỹ để xác định tỷ lệ góp vốn cụ thể của mỗi bên và phân chia đất trên cơ sở thỏa thuận góp vốn đó, nếu không có căn cứ nào khác thì căn cứ Điều 135, 408 Bộ luật dân sự, bản thỏa thuận hợp tác mua đất giữa bà Thoa và ông Khải đề ngày 15-9-1991 và lời khai của bà Thoa để xác định tỷ lệ đóng góp của mỗi bên là 1/2 tổng số tiền (bao gồm tiền mua đất, tiền thuế sử dụng đất, tiền thuế trước bạ) và mỗi bên được hưởng 1/2 diện tích đất đã mua được. Việc Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm kết luận bà Thoa góp vốn 50 triệu/66 triệu đồng, ông Khải góp vốn 16/66 triệu đồng để phân chia đất theo tỷ lệ này là không chính xác và không phù hợp với thỏa thuận của các bên tại giấy thỏa thuận để ngày 15-9-1991 và thực tế số tiền bà Thoa, ông Khải đã góp cho đến khi có quyết định giao đất của Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, khi phân chia đất cho các bên Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm lại không ghi rõ tứ cận và số đo cụ thể chiều rộng, chiều dài khu đất mà các bên được hưởng, cho nên không có căn cứ để đảm bảo thi hành án được.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

    Quyết định:

    Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 345/DSPT ngày 15-11-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 693/DSST ngày 15-4-2004 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là bà Trần Thị Thoa với bị đơn là ông Liên Di Khải, bà Nguyễn Thị Hồng Tâm và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Của, ông Bùi Văn Sáng, ông Lê Công Phước, Ông Lê Hoàng Phong; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết xét xử lại sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.

    ____________________________________________

    - Lý do huỷ các bản án phúc thẩm và sơ thẩm:

    1. Toà án sơ thẩm xác định không chính xác tỷ lệ góp vốn mua đất và việc quyết định chia đất theo tỷ lệ góp vốn này là không phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án;

    2. Khi phân chia đất cho các bên, Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không ghi rõ tứ cận và số đo cụ thể nên không có căn bảo đảm cho việc thi hành án.

    - Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ các bản án phúc thẩm và sơ thẩm:

    Thiếu sót trong việc xem xét, đánh giá chứng cứ và đưa ra quyết định.

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 29/05/2013 09:50:18 SA
     
    3049 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận