Quyết định giám đốc thẩm số: 16/2009/KDTM-GĐT ngày 26 tháng 6 năm 2009 về việc tranh chấp hợp đồng xây dựng

Chủ đề   RSS   
  • #263957 24/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số: 16/2009/KDTM-GĐT ngày 26 tháng 6 năm 2009 về việc tranh chấp hợp đồng xây dựng

    Số hiệu

    16/2009/KDTM-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số:16/2009/KDTM-GĐT ngày 26 tháng 6 năm 2009 về việc tranh chấp hợp đồng xây dựng

    Ngày ban hành

    26/06/2009

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Kinh tế

     

    TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

    TÒA KINH TẾ

    ------------------

    Quyết định giám đốc thẩm

    Số:16/2009/KDTM-GĐT

    Ngày 26 tháng 6 năm 2009

    V/v: tranh chấp hợp đồng xây dựng

    CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
    Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
    ----------------------------------

     

    NHÂN DANH

    NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

    TÒA KINH TẾ

    TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI

    Với Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:

    Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Bùi Thị Hải;

    Các thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:

    1. Ông Bùi Thế Linh,

    2. Ông Nguyễn Văn Tiến,

    Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Ông Nguyễn Bá Thắng-Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

    Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ồng Nguyễn Anh Hoàng -Thẩm tra viên chính Tòa án nhân dân tối cao.

    Ngày 26 tháng 6 năm 2009, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại theo Kháng nghị số9/2009/KDTM-KN-TKT của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số1072/2007/KDTM-PT ngày 17/9/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng xây dựng, giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Công ty cổ phần Miền Đông; có trụ sở tại đường số 1, Khu công nghiệp Biên Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; có ông Nguyễn Lương Quân, đại diện theo Giấy ủy quyền ngày 14/8/2007 của Giám đốc Công ty cổ phần Miền Đông ;

    Bị đơn: Công ty cổ phần M & C; có trụ sở tại # 1901 lầu 19 Sun Wah Tower, 115 Nguyễn Huệ, quận I, thành phố Hồ Chí Minh; do ông Nguyễn Hữu Trí, đại diện theo Giấy ủy quyền của Giám đốc Công ty cổ phần M & C ;

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. Công ty TNHH xây dựng Đại Gia Phú; có trụ sở tại 441/78 Điện Biên Phủ, phường 25, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh;

    2. Ông Nguyễn Kim Long, trú tại 64 An Dương Vương, phường 16, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh;

    3. Ông Trần Hữu Nghị, trú tại 79 Lý Chính Thắng, phường 8, quận 3thành phố Hồ Chí Minh;

    4. Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển xây dựng; có trụ sở tại: 201 Võ Thị Sáu, phường 7, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.

    NHẬN THẤY

    Theo đơn khởi kiện đề ngày 23/10/2006 và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn xuất trình thì thấy:

    Ngày 03/5/2004, Công ty xây dựng Miền Đông ( nay là Công ty cổ phần Miền Đông ) ký kết Hợp đồng kinh tế giao nhận thầu thi công số 06-04/HĐKT với Công ty cổ phần M & C, theo đó: Công ty cổ phần Miền Đông nhận thầu thi công xây lắp công trình chung cư Mỹ Thuận bao gồm các hạng mục:

    - Phần thô từ tầng hầm và sàn tầng trệt (gồm đặt sắt chờ cột và sắt chờ các cấu kiện khác);

    - Phần thô bể ngầm gom nước mưa, bể hầm phân tự hoại, bể nổi thu gom nước thải, bể nước sạch;

    - Hệ thống ống gang đi ngầm, ống STK xuyên đà, ống chờ xuyên vách tầng hầm:

    Giá trị hợp đồng trọn gói là 7.300.870.230 đồng. Giá trị quyết toán được hai bên ký xác nhận ngày 07/10/2004 là 6.688.932.189 đồng. Công ty cổ phần M & C đã chuyển trả cho Công ty cổ phần Miền Đông số tiền là 6.218.932.189 đồng; nay Công ty cổ phần Miền Đông yêu cầu Công ty cổ phần M & C thanh toán 543.655.339 đồng, trong đó: - giá trị khối lượng (kể cả tiền bảo hành) còn nợ 470.000.000 đồng; - tiền lãi chậm trả 73.655.339 đồng. Trong quá trình thi công công trình không có sự tham gia của Công ty Đại Gia Phú. Công ty cổ phần Miền Đông tự tập kết vật tư ở công trường, nên không chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty cổ phần M & C đòi trả tiền thuê mặt bằng.

    Đại diện bị đơn trình bày:

    - Công ty cổ phần M & C thừa nhận có ký Hợp đồng kinh tế số 06-04/HĐKT vào ngày 03/5/2004 với Công ty cổ phần Miền Đông như Công ty cổ phần Miền Đông đã khai; trong số tiền nợ 470.000.000 đồng mà Công ty cổ phần Miền Đông đòi Công ty cổ phần M & C có 450.000.000 đồng mà phần việc của Công ty TNHH xây dựng Đại Gia Phú thì Công ty cổ phần M & C đã thuê hộ cho Công ty TNHH xây dựng Đại Gia Phú mặt bằng của ông Nguyễn Kim Long để chứa vật tư, sau dó Công ty cổ phần Miền Đông tiếp tục sử dụng mặt bằng này làm Ban điều hành công trường, nên Công ty cổ phần M & C yêu cầu được khấu trừ 20.000.000 đồng này vào tiền nợ của Công ty cổ phần Miền Đông.

    - Công ty cổ phần M & C và Công ty TNHH xây dựng Đại Gia Phú có ký Hợp đồng kinh tế số01/2004/HĐKT-ĐGP ngày 10/3/2004, theo đó, Công ty TNHH xây dựng Đại Gia Phú được giao thực hiện các công việc sau:- Lập và thực hiện biện pháp thi công phần hầm; Đào đất và đập đầu cọc bê tông phần móng; Đổ bê tông lót M 100 móng của công trình “căn hộ cao cấp chung cư Mỹ Thuận…”với các khối lượng công việc cụ thể theo hồ sơ thiết kế và bảng dự toán đã được đồng ý giữa hai bên. Công ty TNHH xây dựng Đại Gia Phú đã thực hiện 65% phần việc. Đã có văn bản thanh lý hợp đồng ngày 29/4/2004 với nhau là Công ty TNHH xây dựng Đại Gia Phú có trách nhiệm thanh toán số tiền 450.000.000 đồng với Công ty cổ phần Miền Đông vì phần việc lúc đầu là Công ty TNHH xây dựng Đại Gia Phú chứ không phải là Công ty cổ phần Miền Đông làm mà gói thầu thực tế chỉ có 6.668.932.189 đồng. Công ty cổ phần Miền Đông đã nhận 6.218.932.189 đồng, Công ty TNHH xây dựng Đại Gia Phú đã nhận 450.000.000 đồng; Công ty cổ phần M & C đã ứng trước trả tiền thuê mặt bằng cho Công ty TNHH xây dựng Đại Gia Phú 20.000.000 đồng, tổng cộng là 6.218.932.189 đồng đã chi trả đúng thực tế theo hợp đồng. Nay Công ty cổ phần M & C không đồng ý trả số tiền trên cho Công ty cổ phần Miền Đông nữa vì đã trả rồi.

    Đại diện người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:

    - Công ty TNHH xây dựng Đại Gia Phú xác nhận có ký Hợp đồng kinh tế số01/2004/HĐKT-ĐGP ngày 10/3/2004 với Công ty cổ phần M & C vào ngày 10/3/2004 tổng giá trị hợp đồng là 956.517.684 đồng. Công ty TNHH xây dựng Đại Gia Phú đã làm được 65% công việc theo hợp đồng. Ngày 29/4/2004, hai bên đã thanh lý hợp đồng, hai bên không có gì nợ nhau. Công ty cổ phần M & C ký hợp đồng sau khi Công ty TNHH xây dựng Đại Gia Phú đã làm một số phần việc trước đó tại công trường (65% công việc theo Hợp đồng) và đã nhận 450.000.000 đồng do Công ty cổ phần M & C giao; giữa Công ty TNHH xây dựng Đại Gia Phú và Công ty cổ phần Miền Đông chưa thanh toán với nhau khoản tiền này.

    - Ông Nguyễn Kim Long khai: ông có cho Công ty cổ phần M & C thuê mặt bằng vào cuối năm 2002 thời gian thuê khoảng hơn 1 năm, tiền thuê mỗi tháng là 4.000.000 đồng. Công ty cổ phần M & C trực tiếp trả tiền cho ông, ông không biết Công ty TNHH xây dựng Đại Gia Phú cũng như Công ty cổ phần Miền Đông. Nay ông đã nhận đủ tiền thuê mặt bằng, ông không có ý kiến gì về Công ty cổ phần Miền ��ông đòi tiền Công ty cổ phần M & C.

    - Ông Trần Hữu Nghị (là người được Giám đốc Công ty cổ phần Miền Đông phân công làm chỉ huy trưởng Công trình xây dựng khu chung cư Mỹ Thuận) khai: trong thời gian thi công không thấy có đơn vị nào cùng tham gia thi công với Công ty cổ phần Miền Đông. Ông Đặng Đức Trung không phải đội thi công hay cán bộ của Công ty cổ phần Miền Đông.

    - Theo lời trình bày của Đại diện Công ty cổ phần đầu tư và phát triển xây dựng (Investco) là đơn vị giám sát và thi công công trình chung cư Mỹ Thuận kể từ ngày 26/3/2004 thì đơn vị thi công chính thức là Công ty cổ phần Miền Đông, khi Công ty (Investco) tiếp nhận công trình thì văn phòng làm việc và mặt bằng chứa vật liệu xây dựng không nằm tại công trường mà nằm trong khuôn viên đất của nhà ông Nguyễn Kim Long, nay Công ty (Investco) không liên quan gì tới tiền thuê mướn mặt bằng, cũng như tiền hai công ty đang đòi nợ nhau.

    Tại bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số04/2007/KDTM-ST ngày 19/4/2007, Tòa án nhân dân quận I thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    “ 1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Công ty cổ phần M & C có trách nhiệm thanh toán cho Công ty cổ phần Miền Đông 519.986.400 đồng ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật…

    2. Bác yêu cầu phản tố của Công ty cổ phần M & C yêu cầu Công ty cổ phần Miền Đông phải thanh toán số tiền thuê mặt bằng đã ứng trước là 20.000.000 đồng…”

    Ngày 25/4/2007, Công ty cổ phần M & C có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

    Ngày 27/4/2007, Công ty cổ phần Miền Đông kháng cáo yêu cầu tính lại mức lãi suất quá hạn là 1,5%/tháng theo thỏa thuận trong hợp đồng.

    Tại bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số1072/KDTM-PT ngày 17/9/2007, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    “…Bác yêu cầu của Công ty cổ phần Miền Đông đòi 470.000.000 đồng cùng với lãi suất nợ quá hạn ở Công ty cổ phần M & C …”

    Ngày 20/12/2007, Công ty cổ phần Miền Đông có đơn đề nghị xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.

    Tại kháng nghị số9/2009/KDTM-KN-TKT ngày 20/4/2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, theo hướng hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số1072/KDTM-PT ngày 17/9/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số04/2007/KDTM-ST ngày 19/4/2007 của Tòa án nhân dân quận I thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận I thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật, với lý do (tóm tắt): Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ tại sao trong cùng thời gian lại có hai đơn vị là Công ty TNHH xây dựng Đại Gia Phú và Công ty cổ phần Miền Đông cùng thực hiện các công việc giống nhau như: đào, vận chuyển đất…; đắp cát…; đập đầu cọc BTCT; đổ bê tông lót móng; sàn, đà tầng hầm đá 1x2 M100 (5 hạng mục từ 1→5); đào đất cấp 2…; vận chuyển đất dư…; đóng cừ tràm…; đắp cát san lấp hạng mục từ 36→38, cột 41→43); chưa làm rõ thời gian thực hiện công việc mà chỉ căn cứ vào nội dung hợp đồng ký giữa Công ty cổ phần M & C với Công ty cổ phần Miền Đông để kết luận “không có hạng mục: - Lập và thực hiện biện pháp thi công phần hầm; đào đất và đập đầu cọc bê tông phần móng; đổ bê tông lót M 100 móng” là chưa xem xét khách quan, toàn diện các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm chưa làm rõ những công việc được thể hiện tại nhật ký công trường (dành cho chủ đầu tư) và nhật ký công trường (dành cho nhà thầu) để xác định đơn vị nào thực hiện, và thực hiện theo hợp đồng nào; Công ty cổ phần Miền Đông không tham gia ký biên bản thanh lý hợp đồng đề ngày 29/4/2004 nên nội dung thỏa thuận có liên quan đến Công ty cổ phần Miền Đông không có giá trị pháp lý; Việc thanh lý Hợp đồng kinh tế số01/2004/HĐKT-ĐGP ngày 10/3/2004 giữa Công ty cổ phần M & C với Công ty Đại Gia Phú là không hợp pháp vì không có biên bản nghiệm thu (chỉ có xác nhận của Ban quản lý dự án); tài liệu của phía Công ty Đại Gia Phú không có công chứng, chứng thực hợp pháp; bảng dự toán là bảng ghép…; Về khoản tiền 20.000.000 đồng thuê mặt bằng cũng cần được xem xét lại, vì trong hợp đồng không có thỏa thuận khoản tiền này.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị và đề nghị Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận kháng nghị nêu trên của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

    XÉT THẤY

    Theo Hợp đồng kinh tế số01/2004/HĐKT-ĐGP đề ngày 10/3/2004 giữa Công ty cổ phần M & C với Công ty TNHH xây dựng Đại Gia Phú thì thời gian thi công bắt đầu từ ngày 21/3/2004 và kết thúc vào ngày 30/4/2004.

    Theo Hợp đồng kinh tế giao nhận thầu thi công số 06-04/HĐKT ngày 03/5/2004 giữa Công ty cổ phần M & C với Công ty cổ phần Miền Đông thì thời gian thi công là 75 ngày, kể từ ngày 25/3/2004.

    Theo bản dự toán ngày 19/3/2004 của Hợp đồng kinh tế số01/2004/HĐKT-ĐGP và bản dự toán ngày 03/5/2005 của Hợp đồng số 06-04/HĐKT thì có 11 hạng mục công việc có nội dung giống nhau cả về khối lượng, đơn giá…(các hạng mục được ghi theo số thứ tự 1, 2, 3,4, 5, 36, 38, 41, 42, 43). Như vậy trong cùng thời gian, Công ty TNHH xây dựng Đại Gia Phú và Công ty cổ phần Miền Đông cùng phải làm một số công việc hoàn toàn giống nhau.

    Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ các vấn đề nêu trên, mà chỉ căn cứ vào nội dung hợp đồng kinh tế để kết luận khi ký hợp đồng (giữa Công ty cổ phần M & C với Công ty cổ phần Miền Đông) “không có hạng mục:- Lập và thực hiện biện pháp thi công phần hầm; đào đất và đập đầu cọc bê tông phần móng; đổ bê tông lót M 100 móng” là chưa xem xét khách quan, toàn diện các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

    Tại nhật ký công trường (dành cho chủ đầu tư) thể hiện: Trước và sau khi ký kết hai hợp đồng nêu trên, đã có một số công việc có trong nội dung của hai Hợp đồng đã được thực hiện, nhưng đơn vị nào thực hiện? thực hiện theo hợp đồng nào? thì chưa được Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm xác minh làm rõ.

    Đây là các công việc có tranh chấp và có liên quan đến việc thanh toán tiền nên cần phải được xác minh làm rõ (cần đối chiếu với nhật ký công trường của các nhà thầu).

    Về khoản tiền 450.000.000 đồng: Tại Biên bản thanh lý Hợp đồng đề ngày 29/4/2004, Công ty cổ phần M & C và Công ty TNHH xây dựng Đại Gia Phú thỏa thuận số tiền 450.000.000 đồng Công ty Đại Gia Phú đã nhận “được trừ vào số tiền mà Công ty cổ phần Miền Đông nhận vào đợt đầu tiên. Bên B có trách nhiệm thanh toán số tiền trên với Công ty cổ phần Miền Đông”. Công ty cổ phần Miền Đông không tham gia ký biên bản thanh lý hợp đồng nên nội dung thỏa thuận có liên quan đến Công ty cổ phần Miền Đông không có giá trị ràng buộc đối với Công ty cổ phần Miền Đông . Mặt khác, việc thanh lý Hợp đồng kinh tế số01/2004/HĐKT-ĐGP ngày 10/3/2004 giữa Công ty cổ phần M & C với Công ty Đại Gia Phú là không đúng với quy định của pháp luật về xây dựng vì không có biên bản nghiệm thu (chỉ có xác nhận của Ban quản lý dự án); tài liệu của phía Công ty Đại Gia Phú không có công chứng, chứng thực hợp pháp; bảng dự toán là bảng ghép…

    Tại Biên bản cuộc họp ngày 17/12/2005, đại diện Công ty cổ phần M & C, Công ty Đại Gia Phú và Ban quản lý dự án thống nhất: Giữa Công ty cổ phần M & C, Ban quản lý dự án và Công ty Đại Gia Phú sẽ trực tiếp làm việc với ông Trần Hữu Nghị - Chỉ huy trưởng công trường…và xác nhận lại khối lượng Công ty Đại Gia Phú đã thực hiện là 450 triệu đồng giữa ông Nghị và ông Đặng Đức Trung”. Nhưng sau đó các bên không thống nhất được với nhau vì không đủ thành phần đại diện có thẩm quyền của các đơn vị này.

    Về khoản tiền 20.000.000 đồng thuê mặt bằng: Không có thỏa thuận trong hợp đồng giữa Công ty cổ phần M & C và Công ty cổ phần Miền Đông. Cần xem xét Công ty cổ phần Miền Đông có sử dụng mặt bằng này để tập kết vật tư, thiết bị, vật liệu xây dựng trong quá trình thi công hay không, để xác định trách nhiệm của các bên.

    Bởi các lẽ trên, xét thấy kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ;

    Căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

    QUYẾT ĐỊNH

    Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số1072/KDTM-PT ngày 17/9/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số04/2007/KDTM-ST ngày 19/4/2007 của Tòa án nhân dân quận I thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận I thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    T/M.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM

    THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

    Bùi Thị Hải

    (Đã ký)



     

    Nơi nhận:

    - TAND quận I tp.HCM (kèm theo hồ sơ vụ án

    để xét xử sơ thẩm lại);

    - TAND TP.HCM;

    - Chánh án TANDTC (để b/c);

    - P.CA TANDTC Từ Văn Nhũ (để b/c);

    - VKSNDTC (V12);

    - Thi hành án dân sự quận I- Tp.HCM;

    - Các đương sự (theo địa chỉ);

    - Lưu: TKT (TANDTC), Hồ sơ vụ án.

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 24/05/2013 04:28:52 CH
     
    3358 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận