Số hiệu
|
14/2005/HĐTP-HS
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm số14/2005/HĐTP-HS Ngày 01-8-2005 Về vụ án Bùi Văn Nguyên phạm tội “Đánh bạc”
|
Ngày ban hành
|
01/08/2005
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Hình sự
|
Quyết định giám đốc thẩm số14/2005/HĐTP-HS
Ngày 01-8-2005 Về vụ án Bùi Văn Nguyên
phạm tội “Đánh bạc”
Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
...
Ngày 01 tháng 8 năm 2005, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:
Bùi Văn Nguyên, sinh năm 1965; trú tại tổ 69, khu Bắc Sơn, phường Cẩm Sơn, thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; trình độ văn hoá: lớp 7/10; làm nghề lái xe ôm; con ông Bùi Văn Hiền và bà Vũ Thị Quế; có vợ là Phạm Thị Phương và 02 con (lớn 12 tuổi, nhỏ 1 tuổi); bị bắt tạm giam từ ngày 10-11-2003 đến ngày 20-01-2004.
(Trong vụ án này còn có Nguyễn Thị Hiền bị xử phạt 15 tháng tù về tội đánh bạc, nhưng cho hưởng án treo).
Nhận thấy:
Từ cuối tháng 5-2003, Bùi Văn Nguyên đứng ra làm chủ đề và thuê Nguyễn Thị Hiền bán đề cho Nguyên tại quán bia hơi của bà Lê Thị Cúc tại số 2, phường Cẩm Sơn, thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh với cách thức lấy 2 số cuối của giải đặc biệt xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng hàng ngày làm số trúng thưởng. Nếu người mua đề trùng với 2 số cuối của giải đặc biệt thì được Nguyên trả gấp 70 lần số tiền khách mua đề. Nguyên trả công cho Hiền bằng 27% tổng số tiền bán đề trong ngày. Hàng ngày, khoảng 18 giờ 45 phút, Nguyên đến quán bia hơi của Cúc để nhận bảng đề của Hiền và thanh toán với Hiền số tiền của bảng đề ngày hôm trước.
Khoảng 18 giờ 50 phút ngày 10-11-2003, khi Hiền đang giao nộp bảng ghi bán số đề trong ngày cho Nguyên tại quán của bà Lê Thị Cúc, thì bị Công an bắt quả tang, thu tại bàn và trong tủ để tại quán (do Hiền sử dụng) một số bảng đề, sổ sách ghi chép bán đề và 885.000 đồng; thu trong túi xách của Hiền 01 bảng ghi đề ngày 04-11-2003 và 400.000 đồng; khám xét người và nơi ở của Nguyên, Công an đã thu giữ 01 bảng đề ghi ngày 10-11-2003.
Trong số các bảng đề bị Công an thu giữ lập từ ngày 09-10-2003 đến ngày 10-11-2003 của Nguyên và Hiền, có 25 bảng đề với số tiền 30.333.000 đồng và một bảng đề lập ngày 10-11-2003 có số tiền 2.366.000 đồng, tổng số là 32.699.000 đồng. Nguyên đã thanh toán tiền công cho Hiền là 8.342.000 đồng, Nguyên thu lời bất chính 12.684.000 đồng; số tiền còn lại đã thanh toán cho khách trúng đề.
Số tiền thu được do bán số đề trước ngày 09-10-2003, Nguyên và Hiền khai không nhớ.Tại bản án hình sự sơ thẩm số 159/HSST ngày 21-4-2004, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 248; các điểm b và p khoản 1 Điều 46; Điều 47; khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự, xử phạt Bùi Văn Nguyên 18 tháng tù về tội “đánh bạc” và phạt 3.000.000 đồng; buộc bị cáo phải truy nộp số tiền 12.684.000 đồng tiền thu lợi bất chính để sung quỹ Nhà nước, đã nộp 10.000.000 đồng, còn phải nộp tiếp 2.684.000 đồng.
Ngày 26-4-2004, Bùi Văn Nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.Tại bản án hình sự phúc thẩm số 1347/HSPT ngày 25-8-2004, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội áp dụng khoản 2 Điều 248; các điểm b và p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 60 Bộ luật hình sự, xử phạt Bùi Văn Nguyên 18 tháng tù về tội “đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.Xác nhận bị cáo đã nộp hết số tiền phạt là 3.000.000 đồng.
Tại Quyết định kháng nghị số08/2005/HS-TK ngày 4-5-2005 Chánh án Toà án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ quyết định về hình phạt của bản án hình sự phúc thẩm số 1347/HSPT ngày 25-8-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án hình sự sơ thẩm thẩm số 159/HSST ngày 21-4-2004 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đối với Bùi Văn Nguyên; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên toà giám đốc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
xét thấy:
Bùi Văn Nguyên đánh bạc bằng hình thức chơi đề và làm chủ đề liên tục trong thời gian dài từ cuối tháng 5-2003 đến ngày 10-11-2003. Không tính số tiền bán đề từ trước ngày 09-10-2003 do các bị cáo không nhớ, chỉ tính từ ngày 09-10-2003 đến ngày 10-11-2003 cơ quan điều tra đã thu giữ 26 bảng đề trong 26 ngày với số tiền là 32.699.000 đồng tiền bán đề. Nếu theo tỷ lệ 1 ăn 70 lần thì số tiền đánh bạc và số tiền thu lời bất chính qua việc đánh bạc là rất lớn, xâm phạm rất nghiêm trọng trật tự và an toàn công cộng. Toà án cấp sơ thẩm chưa đánh giá đúng tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo và áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là không chính xác. Tuy nhiên, những sai sót này của Toà án cấp sơ thẩm chưa đến mức nghiêm trọng phải huỷ bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại đối với Bùi Văn Nguyên mà chỉ cần rút kinh nghiệm đối với Toà án cấp sơ thẩm.
Bùi Văn Nguyên phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng và số tiền đánh bạc có giá trị rất lớn, thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 248 Bộ luật hình sự và chỉ có 1 tình tiết giảm nhẹ, Toà án cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt tù và buộc bị cáo cải tạo cách ly xã hội là có căn cứ, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này hiện nay, nhưng Toà án cấp phúc thẩm lại căn cứ vào việc bị cáo đã nộp đủ tiền phạt để áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự để cho bị cáo hưởng án treo là không đúng với quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự.
Bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên tịch thu số tiền 2.958.000 đồng là số tiền tham gia đánh đề của các bị cáo và người liên quan để sung công quỹ, buộc các bị cáo Nguyên và Hiền mỗi bị cáo phải nộp 50.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, phần này không có kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm nên đã có hiệu lực pháp luật, nhưng phần Quyết định của bản án hình sự phúc thẩm lại không tuyên các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật là thiếu sót.
Vì các lẽ trên, căn cứ vào Điều 285 và Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự;
Quyết định:
1- Huỷ bản án hình sự phúc thẩm số 1347/HSPT ngày 25-8-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đối với Bùi Văn Nguyên; giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
____________________________________________
- Lý do huỷ bản án phúc thẩm:
1. Toà án cấp phúc thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự để cho bị cáo được hưởng án treo là không đúng;
2. Toà án cấp phúc thẩm không quyết định về hiệu lực của những phần quyết định của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị là thiếu sót.
- Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ bản án phúc thẩm:
1. Đánh giá không đúng tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội;
2. Thiếu sót trong việc tuyên bản án phúc thẩm.
Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 28/05/2013 04:43:24 CH