Quyết định giám đốc thẩm số 12/hđtp-ds ngày 25-02-2005 về vụ án “tranh chấp nhà thờ”

Chủ đề   RSS   
  • #264822 28/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số 12/hđtp-ds ngày 25-02-2005 về vụ án “tranh chấp nhà thờ”

    Số hiệu

    12/2005/HĐTP-DS

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số12/hđtp-ds ngày 25-02-2005 về vụ án “tranh chấp nhà thờ”

    Ngày ban hành

    25/02/2005

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    QUYếT ĐịNH GIÁM ĐốC THẩM Số12/HĐTP-DS

    NGÀY 25-02-2005 Về Vụ ÁN “TRANH CHấP NHÀ THờ”

     

    Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

    ...

    Ngày 25 tháng 02 năm 2005, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về tranh chấp nhà thờ giữa các đương sự là:

    Nguyên đơn: Dòng họ Nguyễn, thôn Phù Lưu do những người có tên sau đại diện:

    1. Ông Nguyễn Xuân Miên, sinh năm 1930.

    Trú tại: Phòng 3, nhà E, tổ 26A, tập thể Nhà máy Thuốc lá Thăng Long, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.

    2. Ông Nguyễn Địch Hùng, sinh năm 1932.

    Trú tại: Khu tập thể quân đội K70 - 01, Ngọc Hà, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

    3. Ông Nguyễn Văn Khảo, sinh năm 1923.

    Trú tại: Tam Dị, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

    Bị đơn: Ông Nguyễn Sỹ Hiền, sinh năm 1932

    Trú tại: 299 đường Nguyễn Trãi, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. Bà Nguyễn Thị Bích Toàn, sinh năm 1939.

    Trú tại: Thôn Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

    2. Ông Nguyễn Tân Hiền, sinh năm 1939.

    Trú tại: Khu 2, thị trấn Kép, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

    3. Bà Nguyễn Thị Thiện, sinh năm 1934.

    Trú tại: Thôn Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

    4. Bà Nguyễn Thị Tình, sinh năm 1938.

    Trú tại: Thôn Lã, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

    Nhận thấy:

    Dòng họ Nguyễn ở tại thôn Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh có 3 chi:

    - Chi 1 do cụ Nguyễn Văn Chính (bố là Toàn) là trưởng.

    - Chi 2 do cụ Nguyễn Như Dương là trưởng chi.

    - Chi 3 do cụ Nguyễn Văn Khảo đại diện.

    Theo các nguyên đơn khai: Hai căn nhà cấp 4 (trong đó có 1 căn làm nhà thờ, 1 căn là nhà dưới cho thuê bán hàng) trên diện tích đất 100m2 tại thôn Phù Lưu là của dòng họ Nguyễn, thôn Phù Lưu đã có từ lâu đời.

    Trước cách mạng Tháng 8 do cụ Nguyễn Tiến Chẫu và cụ Nguyễn Sắc (em ruột cụ Nguyễn Như Dương) ở trên đó và trông nom nhà thờ. Khi giặc chiếm đóng thì nhà thờ bỏ trống. Đến năm 1954, gia đình cụ Nguyễn Văn Chín ra nhà thờ ở vì nhà cụ Chín bị giặc đốt phá. Sau khi cụ Chín qua đời, toàn bộ đất do bà Nguyễn Thị Bích Toàn quản lý, sử dụng. Do điều kiện chiến tranh và công tác nên đến năm 1995 thì dòng họ mới họp mặt để cúng giỗ tại nhà thờ. Năm 1996, bà Toàn tự ý cắt 38m2 đất trên có căn nhà của dòng họ cho ông Nguyễn Sỹ Hiền không phải là người của dòng họ Nguyễn.

    Năm 2001, đại diện dòng họ Nguyễn, thôn Phù Lưu có đơn khởi kiện ông Nguyễn Sỹ Hiền, yêu cầu xác nhận nhà thờ trên 100m2 đất của dòng họ Nguyễn và yêu cầu ông Nguyễn Sỹ Hiền trả cho dòng họ Nguyễn 38m2 đất hiện đang đứng tên quyền sử dụng. Dòng họ đồng ý để cho bà Toàn được ở hết.

    Theo ông Nguyễn Sỹ Hiền trình bày: ông được cụ Chín nhận làm con nuôi từ năm 1965 và cụ Chín để lại di chúc cho ông 38m2 đất trên có căn nhà tạm bà Toàn đã tách diện tích đất đó cho ông làm thủ tục cấp sổ đỏ. Năm 1996 ông được Uỷ ban nhân dân huyện Từ Sơn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông yêu cầu được sử dụng nhà đất làm nơi thờ cúng vợ chồng cụ Chín.

    Bà Toàn trình bày: Nhà bà đang quản lý là nhà thờ của 1 chi có từ năm 1945 bố mẹ bà đã quản lý nhưng vì có nhà ở nơi khác nên cho một số người ở nhờ. Năm 1949, gia đình bà đến ở, sau đó đi tản cư. Năm 1954, trở về sửa và làm 3 gian nhà mặt đường để ở. Năm 1966, cụ Chín ốm nặng có dặn lại cho ông Nguyễn Sỹ Hiền 3 gian nhà ngói móc, phần còn lại cho ông Nguyễn Tân Hiền (là con của em trai cụ Chín) nhưng với điều kiện khi cụ Mùi (vợ cụ Chín) qua đời mới được chia. Năm 1980, bà sửa chữa nhà ngói thành nhà mái bằng).

    Từ năm 1954 đến năm 1996, trong họ Nguyễn không ai qua lại và cũng không có ý kiến gì với bà về nhà thờ. Bà không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

    Tại bản án sơ thẩm số 23/DSST ngày 19-9-2001 Toà án nhân dân huyện Từ Sơn quyết định:

    - Xác nhận thửa đất 100m2 ở thôn Phù Lưu, xã Tân Hồng trong đó có 38m2 ông Nguyễn Sỹ Hiền đứng tên trên sổ bìa đỏ thuộc quyền sử dụng của dòng họ Nguyễn do các ông Miên, ông Hùng, ông Nhị đại diện được uỷ quyền.

    - Dòng họ Nguyễn được sở hữu một nhà trần, một nhà cấp 4 (3 gian), sân gạch trên diện tích 100m2 nhưng phải trả cho bà Toàn 4.300.000đ.

    - Huỷ bìa đỏ ngày 13-12-1996 mang tên ông Nguyễn Sỹ Hiền.

    Ông Hiền phải chịu 2.850.000đ án phí, dòng họ Nguyễn phải chịu 215.000đ án phí (xác nhận đã nộp 150.000đ dự phí).

    Ngày 20-9-2001 ông Nguyễn Sỹ Hiền kháng cáo.

    Ngày 22-9-2001 bà Toàn kháng cáo.

    Tại bản án phúc thẩm số 03/DSPT ngày 21-1-2002 Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh quyết định: Sửa án sơ thẩm: cho bà Toàn được lưu cư không thời hạn trên đất của nhà thờ dòng họ Nguyễn (bà Toàn không có quyền định đoạt các tài sản trên). Các quyết định khác như án sơ thẩm.

    Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Toàn và các chị của bà Toàn là bà Thiện, bà Tình có đơn khiếu nại. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Vụ 5 trả lời đơn khiếu nại của bà Toàn số 1761 ngày 30-7-2002.

    Tại quyết định kháng nghị số 189/KNDS ngày 29-11-2002 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao nhận xét về tư cách khởi kiện của nguyên đơn chưa đủ cơ sở pháp luật đại diện dòng họ, cần xác minh thêm về các đặc điểm của nhà thờ và thực tế sử dụng đất của gia đình cụ Chín.

    Ngày 15-1-2003, Uỷ ban nhân dân huyện Từ Sơn có quyết định số 12/QĐ-CT: Huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Sỹ Hiền và cấp diện tích 100m2 đất tranh chấp cho ông Miên đại diện dòng họ Nguyễn.

    Tại kết luận số 57 ngày 8-5-2003 Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị huỷ án phúc thẩm để điều tra xét xử lại.

    Tại quyết định giám đốc thẩm số101/GĐT-DS ngày 22-8-2003 Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao quyết định: Huỷ án sơ thẩm số 23/DSST ngày 19-9-2001 của Toà án nhân dân huyện Từ Sơn và bản án phúc thẩm số 03/DSPT 
    ngày 28-1-2002 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh.

    Giao hồ sơ về Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đều tra xét xử theo thủ tục sơ thẩm.

    Tại bản án sơ thẩm số 01/DSST ngày 5-3-2004 Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh quyết định:

    - Xác nhận 100m2 đất ở thôn Phù Lưu thuộc quyền sử dụng của dòng họ Nguyễn, giao ông Miên, Nhị, Hùng, Khảo và Nguyễn Tân Hiền quản lý.

    - Dòng họ Nguyễn được sở hữu một nhà trần cấp 4 (3 gian) sân gạch diện tích 100m2 nhưng phải trả cho bà Toàn 25.000.000đ.

    Giao cho bà Toàn được nhận số tiền trên của dòng họ Nguyễn 25.000.000đ trích trả và bà Toàn được lưu cư tại ngôi nhà trần trên trong khu vực nhà thờ họ Nguyễn (không thời hạn). Bà Toàn không có quyền định đoạt khối tài sản trên diện tích đất 38m2 đó.

    Về án phí: Bà Toàn phải chịu 6.000.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

    Hoàn trả dòng họ Nguyễn 150.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp.

    Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật nếu dòng họ Nguyễn không trả đủ số tiền phải nộp cho bà Toàn thì phải chịu thêm phần lãi suất chậm trả theo quy định của Ngân hàng Nhà nước của số tiền còn thiếu chưa thi hành án.

    Ngày 8-3-2004, ông Nguyễn Tân Hiền, Nguyễn Sỹ Hiền, bà Nguyễn Thị Thiện, bà Nguyễn Thị Bích Toàn, bà Nguyễn Thị Tình có đơn kháng cáo đề nghị công nhận sở hữu phần diện tích nhà do gia đình bà Toàn xây dựng và xin sử dụng phần đất có nhà được sở hữu.

    Tại quyết định số 01/QĐDS ngày 15-3-2004 Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh kháng nghị bản án sơ thẩm số 01/DSST ngày 5-3-2004 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đề nghị xác định ngôi nhà trần 21,6m2 trên thửa đất 38m2 ở thôn Phù Lưu, xã Tân hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh hiện nay được bà Toàn quản lý sử dụng thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bà Toàn.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 142/DSPT ngày 31-8-2004, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định:

    - Xác nhận ngôi nhà mái bằng 21,6m2 trên thửa đất 38m2 ở tại thôn Phù Lưu, xã Tân hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh hiện do bà Nguyễn Thị Bích Toàn quản lý, sử dụng thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bà Toàn.

    - Xác nhận 62m2 đất còn lại ở thôn Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh hiện do bà Nguyễn Thị Bích Toàn quản lý thuộc quyền sở hữu chung của dòng họ Nguyễn, giao cho các ông Nguyễn Xuân Miên, Nguyễn Địch Hùng, Nguyễn Tiến Nhị, Nguyễn Văn Khảo đại diện được uỷ quyền và ông Nguyễn Tân Hiền quản lý.

    Bà Toàn, bà Thiện, bà Tình, ông Tân Hiền, ông Sỹ Hiền không phải nộp án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả bà Thiện, bà Tình, bà Toàn, ông Sỹ Hiền số tiền tạm ứng dự phí kháng cáo, mỗi người 50.000 đồng theo các biên lai đã nộp.

    Các quyết định về án phí của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

    Ngày 8-10-2004, các nguyên đơn khiếu nại yêu cầu xác định 100m2 đất tranh chấp là của dòng họ Nguyễn. Dòng họ Nguyễn chấp nhận thanh toán giá trị xây dựng nhà mái bằng cho bà Toàn và đồng ý cho bà Toàn được lưu cư không thời hạn.

    Tại quyết định số112/KN-DS ngày 21-12-2004 Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án phúc thẩm số 142/DSPT ngày 31-8-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội với nhận xét:

    - Có căn cứ xác định ngôi nhà thờ (cấp 4) trên diện tích 100m2 đất tại thôn Phù Lưu, xã Tân Hồng là của dòng họ Nguyễn, bà Toàn và cụ Chín (bố bà Toàn) chỉ là người trông nom bảo quản và xây dựng diện tích 21,6m2 nhà mái bằng. Toà án cấp sơ thẩm buộc dòng họ Nguyễn thanh toán cho bà Toàn 25.000.000đ và cho bà Toàn lưu cư không thời hạn là hợp lý.

    - Toà án cấp phúc thẩm quyết định giao cho bà Toàn sử dụng 38m2 đất thuộc khuôn viên nhà thờ là không phù hợp với quy định tại Điều 234 Bộ luật dân sự.

    Mặt khác, Uỷ ban nhân dân huyện Từ Sơn đã có quyết định số12/QĐ-CT ngày 15-1-2003 huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Sỹ Hiền 38m2. Đồng thời cấp toàn bộ 100m2 đất cho dòng họ Nguyễn trong đó có 38m2 đất đứng tên ông Nguyễn Sỹ Hiền.

    Như vậy, 38m2 đất đang tranh chấp bà Toàn và ông Nguyễn Sỹ Hiền không được cơ quan có thẩm quyền cấp quyền sử dụng nhưng bản án phúc thẩm lại xác nhận diện tích đất trên thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà Toàn là không đúng pháp luật.

    Ngoài ra, bản án dân sự phúc thẩm không giao diện tích nhà thờ (3 gian cấp 4) cho ai và tuyên 62m2 đất thuộc quyền sở hữu chung của dòng họ Nguyễn là không chính xác. Bởi vậy, cần phải kháng nghị bản án phúc thẩm số 142/DSPT ngày 03-8-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội để xét xử lại theo quy định của pháp luật.

    Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao xác định ngôi nhà thờ 3 gian cấp 4 trên 100m2 đất tại thôn Phù Lưu, xã Tân Hồng của dòng họ Nguyễn. Nhưng thực tế, gia đình bà Toàn đã ở từ năm 1954 đến nay và có nhiều công sức đóng góp trong việc trông coi, xây dựng 21,6m2 nhà mái bằng. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ bản án phúc thẩm số 142/DSPT ngày 31-8-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội để xét xử lại phúc thẩm sửa phần quyết định không giao nhà thờ cho ai và tuyên sai về quyền sử dụng đất, còn diện tích 21,6m2 nhà mái bằng giao cho bà Toàn sở hữu, đồng thời được sử dụng diện tích 38m2 đất.

    xét thấy:

    Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì trên tường ngôi nhà 3 gian cấp 4 trên diện tích 100m2 đất toạ lạc tại thôn Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh được gắn hai tấm bia, nội dung văn bia đã được Viện Hán Nôm Hà Nội dịch ngày 03-4-2001 và ngày 05-12-2002. Văn bia thứ nhất có nội dung “Nhà thờ đại tông là nơi thờ tự tổ tiên các đời, nghìn đời không thay đổi là nơi bốn mùa quanh năm tộc họ tụ họp ở đây... ngày lành tháng 6 năm Khải Định thứ nhất (1916)”. Văn bia thứ hai có nội dung: “Quan viên hương lão cùng toàn thể mọi người trên dưới, lớn bé trong họ Nguyễn thôn Thi (Chi), xã Phù Lưu, tổng Phù Lưu, huyện Đông Ngạn, phủ Từ Sơn họp bàn về lập bia hậu Bản tộc bằng công cùng ký kết lập bia hậu đặt tại bên trái nhà từ đường để lưu truyền mãi mãi, ngày 10-8 năm Đinh Mùi, niên hiệu Thành Thái 19 (1907)”.

    Như vậy, có cơ sở khẳng định ngôi nhà 3 gian trên diện tích 100m2 trên là nhà thờ đã có từ lâu đời và là nhà thờ của dòng họ Nguyễn. Còn cụ Chín đến ở nhà thờ với tư cách là người quản lý, sử dụng, bà Toàn và ông Sỹ Hiền không xuất trình được chứng cứ chứng minh nhà thờ họ do cụ Chín xây dựng và là của riêng một chi. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đều xác định nhà thờ trên 100m2 đất tại thôn Phù Lưu là nhà thờ của dòng họ Nguyễn là có căn cứ. Tuy nhiên, trong quá trình quản lý, sử dụng gia đình bà Toàn có công trông nom, bảo quản và xây dựng lại 21,6m2 nhà, hiện bà Toàn sống độc thân, không có chỗ ở nào khác. Toà án cấp sơ thẩm buộc dòng họ Nguyễn thanh toán cho bà Toàn 25.000.000đ và cho bà Toàn lưu cư không thời hạn là đảm bảo quyền lợi của bà Toàn. Nhưng phần quyết định của bản án sơ thẩm còn thiếu không tuyên bác yêu cầu xin sử dụng đất của ông Nguyễn Sỹ Hiền, không tuyên 21,6m2 nhà mái bằng giao cho ai sở hữu, giá trị của phần nhà do bà Toàn xây dựng là bao nhiêu... Về án phí sơ thẩm buộc bà Toàn phải nộp 6.000.000đ là chưa chính xác.

    Toà án cấp phúc thẩm tuy đã xác định nhà thờ và 100m2 đất của dòng họ Nguyễn nhưng lại quyết định giao cho bà Toàn sở hữu 21,6m2 nhà trên 38m2 đất thuộc khuôn viên nhà thờ là không phù hợp với quy định tại Điều 234 Bộ luật dân sự.

    Mặt khác, Uỷ ban nhân dân huyện Từ Sơn đã có quyết định số12/QĐ-CT ngày 15-1-2003, huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng 38m2 đất đang tranh chấp giữa bà Toàn và ông Nguyễn Sỹ Hiền không được các cơ quan có thẩm quyền cấp quyền sử dụng, nhưng Toà án cấp phúc thẩm cho rằng gia đình bà Toàn đã sinh sống ổn định lâu dài từ nhiều năm, 38m2 đất ông Nguyễn Sỹ Hiền đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng từ năm 1996, để giao quyền sở hữu 21,6m2 nhà trên thửa đất 38m2 đất cho bà Toàn là không đúng. Ngoài ra, Toà án cấp phúc thẩm còn có sai lầm là không giao ngôi nhà thờ 3 gian cấp 4 nói trên thuộc quyền sở hữu chung của dòng họ Nguyễn cho dòng họ Nguyễn quản lý và sử dụng cũng là thiếu sót, cần được khắc phục.

    Vì vậy, cần phải huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 142/DSPT ngày 31-8-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội để xét xử lại phúc thẩm theo hướng xác định ngôi nhà thờ 3 gian cấp 4 được xây dựng trên thửă đất 100m2 tại thôn Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh thuộc quyền sở hữu nhà và sử dụng đất của dòng họ Nguyễn; giao cho dòng họ Nguyễn sở hữu ngôi nhà mái bằng 21,6m2 trên đất của dòng họ Nguyễn; đồng thời ghi nhận sự tự nguyện của dòng họ Nguyễn cho bà Toàn được ở hết đời tại diện tích 21,6m2 nhà này và dòng họ Nguyễn phải thanh toán cho bà Toàn 25.000.000 đồng tiền xây dựng nhà mái bằng và tiền công trông nom, bảo quản di sản, tính lại phần án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

    Quyết định:

    - Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 142/DSPT ngày 31-8-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội về vụ tranh chấp nhà thờ giữa nguyên đơn là dòng họ Nguyễn, thôn Phù Lưu với bị đơn là ông Nguyễn Sỹ Hiền và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Bích Toàn, bà Nguyễn Thị Thiện, bà Nguyễn Thị Tình và ông Nguyễn Tân Hiền.

    - Giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    ____________________________________________

    - Lý do huỷ bản án phúc thẩm:

    Toà án cấp phúc thẩm đã quyết định giao quyền sở hữu 21,6m2 nhà trên 38m2 đất nằm trong diện tích 100m2 đất mà Toà án các cấp đã xác định thuộc sở hữu của dòng họ Nguyễn là không đúng với quy định tại Điều 234 của Bộ luật dân sự và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

    - Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ bản án phúc thẩm:

    Thiếu sót trong việc xem xét, đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật.

     

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 28/05/2013 04:25:16 CH
     
    2987 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận