Quyết định giám đốc thẩm số: 09/2009/KDTM-GĐT ngày 30 tháng 3 năm 2009 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng

Chủ đề   RSS   
  • #263947 24/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số: 09/2009/KDTM-GĐT ngày 30 tháng 3 năm 2009 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng

    Số hiệu

    09/2009/KDTM-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số:09/2009/KDTM-GĐT ngày 30 tháng 3 năm 2009 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng

    Ngày ban hành

    30/03/2009

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Kinh tế

     

    TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

    TÒA KINH TẾ

    ------------------

    Quyết định giám đốc thẩm

    Số:09/2009/KDTM-GĐT

    Ngày 30 tháng 3 năm 2009

    V/v: tranh chấp hợp đồng tín dụng

    CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
    Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
    ----------------------------------

     

    NHÂN DANH

    NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

    TÒA KINH TẾ

    TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI

    Với thành phần Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:

    Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Thế Linh ;

    Các Thẩm phán: Bà Bùi Thị Hải;

    Ông Nguyễn Văn Tiến.

    Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Bà Vũ Thị Thanh Nga-Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

    Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Nguyễn Đức Thường.

    Ngày 30 tháng 3 năm 2009, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại theo Kháng nghị số05/KN-VKSTC-V12 ngày 25/02/2009 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với Quyết định kinh doanh, thương mại sơ thẩm số01/2007/KDTM-ST ngày 15/12/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị về tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tại Quảng Trị; có trụ sở tại số 24 Hùng Vương, thị xã Đông Hà, tỉnh Quảng Trị;

    Bị đơn: Ông Bùi Nghị, Chủ Doanh nghiệp tư nhân Hữu Nghị; địa chỉ: phường Đông Lương, thị xã Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.

    NHẬN THẤY

    Theo Đơn khởi kiện đề ngày 05/12/2007 và các tài liệu, chứng cứ do Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tại Quảng Trị xuất trình thì trong năm 2003, Ngân hàng trên đã cho ông Bùi Nghị, chủ Doanh nghiệp tư nhân Hữu Nghị vay theo 03 hợp đồng tín dụng trung hạn và dài hạn với tổng số tiền nợ gốc tính đến ngày 30/11/2007 là 2.384.000.000 đồng, tiền lãi là 808.987.000 đồng. Tổng cộng nợ gốc và lãi là 3.197.760.987 đồng.

    Hai bên đã thương lượng nhiều lần về việc thanh toán nợ gốc và lãi. Đến ngày 15/01/2007 thì đạt được thỏa thuận, theo đó ông Bùi Nghị cam kết thanh toán tiền lãi làm 2 đợt. Tuy nhiên, ông Bùi Nghị, Chủ Doanh nghiệp tư nhân Hữu Nghị chỉ thanh toán lãi của đợt 1 vào ngày 26/02/2007 là 100.000.000 đồng, sau đó không thanh toán tiếp tiền lãi của đợt 2 và tiền nợ gốc. Do đó, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tại Quảng Trị khởi kiện với yêu cầu buộc ông Bùi Nghị, Chủ Doanh nghiệp tư nhân Hữu Nghị phải thanh toán nợ gốc và lãi như đã nêu ở trên.

    Ngày 31/01/2008, trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tại Quảng Trị đã có đơn xin rút lại đơn khởi kiện nêu trên và có đơn xin miễn toàn bộ số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 15.000.000 đồng.

    Tại Quyết dịnh kinh doanh, thương mại sơ thẩm số01/2007/QĐST-KDTM ngày 15/12/2007, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị đã quyết định: “Đình chỉ vụ án dân sự thụ lý dố01/2008/TLST-KDTM ngày 03/01/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị … Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tại Quảng Trị được miễn toàn bộ án phí kinh doanh, thương mại sơ thẩm và được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí là 15.000.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 007853 ngày 03/01/2008 của Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Trị”.

    Ngày 17/11/2008, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị có Văn bản số684/VKS-P5 gửi Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Quyết định sơ thẩm nêu trên với lý do: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị đã áp dụng không đúng pháp luật trong việc miễn án phí cho đương sự.

    Tại Quyết định kháng nghị số04/KN-VKSTC-V12 ngày 25/02/2009, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với Quyết dịnh kinh doanh, thương mại sơ thẩm số01/2007/QĐST-KDTM ngày 15/12/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị với nhận định như sau: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị căn cứ điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự để đình chỉ giải quyết vụ kiện là đúng. Sau khi dẫn quy định tại khoản 2 Điều 193 Bộ luật tố tụng dân sự về án phí, Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án và quy định tại mục 1 phần IV Nghị quyết số01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cho rằng trong trường hợp trên, đương sự không được miễn án phí. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị miễn án phí cho Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tại Quảng Trị là không đúng và làm thiệt hại cho Nhà nước từ nguồn thu về án phí. Từ đó, kháng nghị đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo trình tự giám đốc thẩm theo hướng hủy Quyết dịnh kinh doanh, thương mại sơ thẩm số01/2007/QĐST-KDTM ngày 15/12/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị để giải quyết lại phần án phí từ trình tự sơ thẩm, bảo đảm đúng quy định của pháp luật.

    XÉT THẤY

    Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì ngày 08/11/2007, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tại Quảng Trị đã có đơn khởi kiện đối với ông Bùi Nghị, Chủ Doanh nghiệp tư nhân Hữu Nghị về việc yêu cầu Chủ doanh nghiệp này phải thanh toán 3.197.760.987 đồng, bao gồm nợ gốc, nợ lãi trong hạn và nợ lãi quá hạn phát sinh từ 03 hợp đồng tín dụng trung hạn và dài hạn. Ngày 03/01/2008, Ngân hàng trên đã nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm là 15.000.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 007853. Sau khi Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị thụ lý và giải quyết vụ án thì ngày 31/01/2007, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tại Quảng Trị có đơn xin rút đơn khởi kiện với lý do để tạo điều kiện cho Chủ Doanh nghiệp tư nhân Hữu Nghị khắc phục khó khăn, có điều kiện trả nợ vay ngân hàng. Cùng ngày trên, Ngân hàng cũng có đơn xin miễn tạm ứng án phí.

    Xét thấy việc Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị căn cứ điểm c khoản 1 Điều 192 và Điều 194 Bộ luật tố tụng dân sự để ra Quyết định số01/2008/QĐST-KDTM ngày 15/12/2007 đình chỉ giải quyết vụ án kinh doanh thương mại nêu trên là phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 193 Bộ luật tố tụng dân sự về hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thì “Trong trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này thì tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp được sung vào công quỹ nhà nước”. Tại mục 1 phần IV Nghị quyết số01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã quy định: “…Đối với những vấn đề chưa được quy định tại chương IX của Bộ luật tố tụng dân sự, thì trong thời gian chưa có quy định cụ thể của cơ quan có thẩm quyền, các vấn đề đó về án phí, lệ phí vẫn được thực hiện theo Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án…”. Theo quy định tại Chương IV của Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí kinh tế (nay là án phí kinh doanh, thương mại) thì không có trường hợp nào đương sự được miễn án phí kinh doanh, thương mại. Theo quy định tại khoản 1 Điều 18 Nghị định số 70/CP nêu trên thì “người đã nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm… nếu rút đơn kiện trước khi mở phiên tòa sơ thẩm… thì được trả lại 50% số tiền tạm ứng án phí đã nộp”. Như vậy, việc Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị miễn án phí và hoàn trả tiền tạm ứng án phí kinh doanh, thương mại sơ thẩm là 15.000.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 007853 ngày 03/01/2007 của Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Trị cho Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tại Quảng Trị là không đúng quy định của pháp luật, làm thiệt hại cho Nhà nước từ nguồn thu về án phí. Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là có căn cứ và cần thiết.

    Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 2 Điều 297 và khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

    QUYẾT ĐỊNH

    1. Hủy Quyết dịnh kinh doanh, thương mại sơ thẩm số01/2007/QĐST-KDTM ngày 15/12/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị về phần “ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tại Quảng Trị được miễn toàn bộ án phí kinh doanh, thương mại sơ thẩm và được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí là 15.000.000 đồng theo biên lai thu tiền số 007853 ngày 03/01/2007 của Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Trị”.

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị dể giải quyết lại phần án phí nêu trên theo đúng quy định của pháp luật.

    CÁC THẨM PHÁN

    Nguyễn Văn Tiến Bùi Thị Hải
    (Đã ký)

    THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

    Bùi Thế Linh

    (Đã ký)

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 24/05/2013 04:10:34 CH
     
    3904 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận