Quyết định giám đốc thẩm số: 07/2007/KDTM-GĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng

Chủ đề   RSS   
  • #264153 25/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số: 07/2007/KDTM-GĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng

    Số hiệu

    07/2007/KDTM-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số:07/2007/KDTM-GĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng

    Ngày ban hành

    15/08/2007

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Kinh tế

     

    TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

    TÒA KINH TẾ

    ------------------

    Quyết định giám đốc thẩm

    Số:07/2007/KDTM-GĐT

    Ngày 15 tháng 8 năm 2007

    V/v: tranh chấp hợp đồng

    Tín dụng

    CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
    Độc Lập - Tự do - Hạnh phúc
    ----------------------------------

     

    NHÂN DANH

    NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

    TÒA KINH TẾ

    TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI

    Với thành phần Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:

    Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Bùi Thị Hải;

    Các Thẩm phán: Ông Bùi Huy Tiến;

    Ông Bùi Thế Linh.

    .

    Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Trần Thị Kim Oanh, Thẩm tra viên Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao.

    Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Bà Vũ Thị Thanh Nga - Kiểm sát viên.

    Họp phiên tòa ngày 15 tháng 8 năm 2007, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao, để giám đốc thẩm vụ án kinh doanh thương mại về tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Nơ Trang Long, tỉnh Đăk Lăk;

    Bị đơn: Doanh nghiệp tư nhân thương mại và dịch vụ TIMI

    Địa chỉ: 252 Trần Phú, TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk, do ông Phan Chu Doãn Cường đại diện theo giấy ủy quyền ngày 24/7/2006 của bà Bùi Thị Hiền chủ doanh nghiệp tư nhân thương mại và dịch vụ TIMI;

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    - Ông Bùi Văn Hùng và bà Bùi Thị Thu, địa chỉ: Thông 2, xã Hòa Thắng, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk;

    - Ông Phan Chu Doãn Cường, địa chỉ: 252 Trần Phú, TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk.

    Do có Quyết định kháng nghị số05/KN-KT ngày 17/4/2007 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

    NHẬN THẤY

    Ngày 17/01/2005, Doanh nghiệp tư nhân thương mại và dịch vụ TIMI (sau đây viết tắt là Doanh nghiệp TIMI) do bà Bùi Thị Hiền làm chủ đã ký hợp đồng tín dụng số 014/04KD với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Nơ Trang Long, tỉnh Đăk Lăk (sau đây viết tắt là Ngân hàng) để vay 400.000.000 đồng; lãi suất 15/tháng; lãi suất nợ quá hạn 1,5%/tháng thời hạn vay là 12 tháng kể từ ngày 17/01/2005;

    Để đảm bảo cho số tiền vay trên, cùng ngày 17/01/2005 Ông Bùi Văn Hùng và bà Bùi Thị Thu đã ký hợp đồng bảo lãnh giá trị quyền sử dụng 103 m2 đất và tài sản gắn liền với đất là căn nhà tại 252 Trần Phú, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk. Nguồn gốc tài sản đảm bảo tiền vay là của ông Phan Chu Doãn Cường và bà Bùi Thị Hiền đã tặng cho Ông Bùi Văn Hùng và bà Bùi Thị Thu theo hợp đồng tặng cho ngày 10/12/2004, hợp đồng này có xác nhận của Phòng công chứng số 1 tỉnh Đăk Lăk.

    Quá hạn trả nợ, Doanh nghiệp TIMI chỉ trả được 14.400.000 đồng, nên ngày 18/01/2006 Ngân hàng đã khởi kiện đến Tòa án, yêu cầu Doanh nghiệp TIMI phải trả cả gốc và lãi tổng cộng là 434.267.000 đồng.

    Tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số25/2005/QĐST-KDTM ngày 04/8/2006, Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk đã ra quyết định:

    “Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự… Doanh nghiệp TIMI phải trả hết nợ 468.000.000 đồng chậm nhất vào ngày 30/8/2006;

    Nếu hết ngày 30/8/22006 Doanh nghiệp TIMI vẫn không trả hết số nợ trên thì Ngân hàng được quyền phát mãi tài sản bảo đảm là căn nhà 252 Trần Phú, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk của người bảo lãnh nợ vay là Ông Bùi Văn Hùng và bà Bùi Thị Thu theo quy định của pháp luật…”.

    Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí.

    Ngày 10/10/2006, Thi hành án dân sự tỉnh Đăk Lăk có Công văn đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số25/2005/QĐST-KDTM ngày 04/8/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk.

    Tại Quyết định kháng nghị số05/KN-KT ngày 17/4/2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số25/2005/QĐST-KDTM ngày 04/8/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk, đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên, giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại từ giai đoạn sơ thẩm, với lý do:

    Căn nhà số 252 Trần Phú, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk thuộc quyền sở hữu của ông Phan Chu Doãn Cường và bà Bùi Thị Hiền. Ngày 10/12/2004 ông Cường, bà Hiền lập hợp đồng tặng cho Ông Bùi Văn Hùng và bà Bùi Thị Thu. Hợp đồng tặng cho mới chỉ được công chứng, chưa đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự thì vẫn thuộc quyền sở hữu của ông Cường, bà Hiền; hợp đồng bảo lãnh bằng giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của người bảo lãnh là Ông Bùi Văn Hùng và bà Bùi Thị Thu với bên được bảo lãnh là ông Cường, bà Hiền là trái với quy định về bảo lãnh tại khoản 2 Điều 366 Bộ luật dân sự.

    Tài sản này đã được thi hành án dân sự tỉnh Đăk Lăk kê biên theo Quyết định cưỡng chế kê biên tài sản số360/QĐ-THA ngày 23/6/2005 để thi hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 09/KTST ngày 07/10/2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk, theo đó Doanh nghiệp TIMI phải trả cho Công ty TNHH nước giải khát Coca Cola 3.021.608.000 đồng và bản án phúc thẩm số 01 ngày 04/3/2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng, theo đó Doanh nghiệp TIMI phải trả cho Công ty chế biến thực phẩm Interfood 92.222.800 đồng.

    XÉT THẤY

    Theo hợp đồng tặng cho nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở số510/HĐ-TCN ngày 10/12/2004 thì ông Phan Chu Doãn Cường và bà Bùi Thị Hiền tặng cho Ông Bùi Văn Hùng và bà Bùi Thị Thu “toàn bộ diện tích nhà ở và chuyển nhượng diện tích đất ở bao chiếm đối với căn nhà số 252 Trần Phú…”. Hợp đồng tặng cho mới chỉ được công chứng, chưa đăng ký quyền sở hữu nên theo quy định tại khoản 2 Điều 463 Bộ luật dân sự năm 1995 thì hợp đồng tặng cho chưa có hiệu lực. Cho nên hợp đồng bảo lãnh bằng giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất nêu trên của người bảo lãnh là Ông Bùi Văn Hùng và bà Bùi Thị Thu với bên được bảo lãnh là ông Cường, bà Hiền là không có giá trị pháp lý.

    Tuy nhiên, xét thấy: tài sản đảm bảo đối với hợp đồng tín dụng số 014/04KD ngày 17/01/2005 là nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại 252 Trần Phú chưa thuộc quyền sở hữu của ông Hùng, bà Thu thì vẫn còn thuộc quyền sở hữu của ông Cường, bà Hiền cho nên ông Cường, bà Hiền có quyền đưa tài sản này để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Tại Đơn yêu cầu đăng ký bảo lãnh ngày 17/01/2005, ông Cường, bà Hiền đã ký đơn “Bên bảo lãnh” cùng với ông Hùng, bà Thu đưa quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là căn nhà số 252 Trần Phú (sau dây gọi là tài sản bảo đảm) để bảo đảm nghĩa vụ hợp đồng tín dụng ngày 17/01/2005, UBND phường Thành Công TP.Buôn Ma Thuột đã đăng ký giao dịch bảo đảm này. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm này đã theo đúng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 2 và điểm đ khoản 2 Điều 8 Nghị định của Chính phủ số08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 về đăng ký giao dịch bảo dảm; Tài sản bảo đảm thuộc quyền sở hữu của ông Cường, bà Hiền và không có tranh chấp, được cơ quan có thẩm quyền đăng ký là phù hợp với quy định tại Điều 326 Bộ luật dân sự năm 1995: “Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của người bảo đảm và được phép giao dịch”. Cho nên, việc ông Cường, bà Hiền thể hiện ý chí tự nguyện dùng tài sản thuộc sở hữu của mình bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng là không trái với các quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.

    Tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 09/KTST ngày 07/10/2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk và tại bản án phúc thẩm kinh tế số 01 ngày 04/3/2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng không có quyết định về việc kê biên căn nhà số 252 Trần Phú để bảo đảm thi hành án. Ngày 17/01/2005 Tài sản này được đăng ký bảo đảm cho hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng và Doanh nghiệp TIMI. Theo quy định tại Điều 13 Nghị định của Chính phủ số08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 về đăng ký giao dịch bảo đảm thì hiệu lực của việc đăng ký giao dịch bảo đảm giữa ông Cường, bà Hiền với Ngân hàng “có giá trị trong năm năm, kể từ ngày đăng ký, trừ trường hợp các bên có yêu cầu xóa đăng ký trước thời hạn hoặc có yêu cầu đăng ký gia hạn…”. Trong hồ sơ vụ án không có tài liệu nào thể hiện có sự xóa đăng ký trước thời hạn, nên đăng ký bảo đảm vẫn còn hiệu lực. Theo quy định tại Điều 22 Nghị định của Chính phủ số08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 về đăng ký giao dịch bảo đảm thì giá trị pháp lý của việc đăng ký giao dịch bảo đảm “có giá trị với người thứ ba” tức là Ngân hàng. Đồng thời có giá trị pháp lý trong “thứ tự ưu tiên thanh toán giữa những người cùng nhận bảo đảm bằng một tài sản được xác định theo thứ tự đăng ký”. Quyết định cưỡng chế kê biên tài sản số360/QĐ-THA ngày 23/6/2005 của Thi hành án dân sự tỉnh Đăk Lăk, ban hành sau khi căn nhà này đã được đăng ký giao dịch bảo đảm cho Ngân hàng .

    Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án, ông Cường, bà Hiền đều thể hiện ý chí “thống nhất thỏa thuận” với ông Hùng, bà Thu bán tài sản bảo đảm để thanh toán nợ cho Ngân hàng. Mặc dù, về pháp lý không cần có sự thỏa thuận của ông Hùng, bà Thu vì tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của ông Cường, bà Hiền và đã được đăng ký bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật. Mục đích và nội dung của sự thỏa thuận là chủ Doanh nghiệp TIMI trả nợ cho Ngân hàng. Vì vậy, việc Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk công nhận sự thỏa thuận này là thực hiện đúng nguyên tắc tôn trọng sự tự nguyện của đương sự, không trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.

    Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 291; khoản 1 Điều 297 Bộ luật tố tụng dân sự,

    QUYẾT ĐỊNH

    Không chấp nhận kháng nghị số05/KN-KT ngày 17/4/2007 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

    Giữ nguyên Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số25/2005/QĐST-KDTM ngày 04/8/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk .

    CÁC THẨM PHÁN

    Bùi Thế Linh Bùi Huy Tiến

    (Đã ký) (Đã ký)

    THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

    Bùi Thị Hải

    (Đã ký)

     

     

     
    3347 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận