Quyết định giám đốc thẩm số: 06/2008/KDTM-GĐT ngày 24 tháng 6 năm 2008 về việc tranh chấp hợp đồng Mua bán hàng hóa

Chủ đề   RSS   
  • #264094 25/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số: 06/2008/KDTM-GĐT ngày 24 tháng 6 năm 2008 về việc tranh chấp hợp đồng Mua bán hàng hóa

    Số hiệu

    06/2008/KDTM-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số:06/2008/KDTM-GĐT ngày 24 tháng 6 năm 2008 về việc tranh chấp hợp đồng Mua bán hàng hóa

    Ngày ban hành

    24/06/2008

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Kinh tế

     

    TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

    TÒA KINH TẾ

    ------------------

    Quyết định giám đốc thẩm

    Số:06/2008/KDTM-GĐT

    Ngày 24 tháng 6 năm 2008

    V/v: tranh chấp hợp đồng

    Mua bán hàng hóa

    CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
    Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
    ----------------------------------

     

    NHÂN DANH

    NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

    TÒA KINH TẾ

    TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI

    Với thành phần Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:

    Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Huy Tiến;

    Các Thẩm phán:- Ông Bùi Thế Linh;

    - Ông Nguyễn Ngọc Vân.

    Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Trần Thị Kim Oanh -Thẩm tra viên Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao.

    Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Bà Vũ Thị Thanh Nga-Kiểm sát viên.

    Họp phiên tòa ngày 24 tháng 6 năm 2008, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao dể giám đốc thẩm vụ án kinh doanh, thương mại về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa:

    Nguyên đơn: Công ty TNHH Xây dựng thương mại Út Nữa

    Trụ sở tại: 88 phường Bạch Đằng, khóm 5, phường 4, thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh,

    Do ông: Trần Văn Nữa, giám đốc Công ty đại diện.

    Bị đơn: Công ty xây dựng giao thông Sài Gòn

    Trụ sở tại: 163 Điện Biên Phủ, phường 15, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh,

    Do ông: Phạm Văn Si đại diện theo giấy ủy quyền số 1096 UQ/XDGT ngày 17/10/2005 (BL.55) của ông Nguyễn Ngọc Thọ, quyền Giám đốc Công ty.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Trương Hữu Khiêm, Giám đốc xí nghiệp xây dựng số 7 (Phụ thuộc Công ty xây dựng giao thông Sài Gòn),

    Trú tại: 103 Bầu Cát 2, phường 12, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh

    do có quyết định kháng nghị số02/2008/KN-KT ngày 31/01/2008 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

    NHẬN THẤY

    Ngày 28/9/2005, Công ty TNHH thương mại Út Nữa (viết tắt là Công ty Út Nữa ) có đơn khởi kiện (BL.07) đối với bị đơn là Công ty Xây dựng giao thông Sài Gòn (viết tắt là Công ty XDGTSG) và ông Trương Hữu Khiêm, Giám đốc Xí nghiệp xây dựng số 7 thuộc Công ty XDGTSG.

    1. Trình bày của Nguyên đơn:

    Công ty Út Nữa có ký3 hợp đồng bán và vận chuyển vật tư xây dựng cho Công ty XDGTSG gồm:

    - Hợp đồng số 02/HĐVT ngày 28/82001 (BL.27), Công ty Út Nữa (lúc này là Doanh nghiệp tư nhân Út Nữa) bán đá và sỏi đỏ cho Đội công trình số 14 (nay là Xí nghiệp xây dựng số 7) phụ thuộc Công ty XDGTSG, do ông Trương Hữu Khiêm – Đội trưởng đại diện ký (có xác nhận của ông Võ Quang Thái là Phó giám đốc Công ty XDGTSG) để thi công “tuyến tránh Quốc lộ 53”;

    - Hợp đồng không số ngày 02/01/2003 (BL.09), Công ty Út Nữa (lúc này là Doanh nghiệp tư nhân Út Nữa) bán vật liệu xây dựng các loại cho Công ty XDGTSG, do ông Lê Trọng – Giám đốc đại diện ký để thi công “tuyến tránh Quốc lộ 53”;

    - Hợp đồng không số ngày 17/03/2003 (BL.29), Công ty Út Nữa (lúc này là Doanh nghiệp tư nhân Út Nữa) vận chuyển bê tông nhựa nóng cho Công ty XDGTSG , do ông Lê Trọng – Giám đốc đại diện ký để thi công “tuyến tránh Quốc lộ 53”;

    Ngày 10/12/2004, hai bên lập biên bản xác nhận công nợ (BL.10) với nội dung:

    Tổng giá trị 03 hợp đồng là: 3.787.800.000 đồng;

    Tổng giá trị thực hiện là: 2.936.149.542 đồng;

    Đã thanh toán: 2.326.891.200 đồng;

    Còn lại: 609.258.342 đồng.

    Nay công trình đã đưa vào sử dụng, nhưng Công ty XDGTSG vẫn chưa thanh toán số tiền còn nợ nêu trên. Yêu cầu Công ty XDGTSG và ông Trương Hữu Khiêm – Giám đốc Xí nghiệp xây dựng số 7 phải thanh toán hết số tiền mua vật tư còn nợ trên và tiền lãi của số tiền này tính từ ngày 10/12/2004 (BL.114) theo lãi suất quá hạn của Ngân hàng nhà nước.

    2. Trình bày của Bị đơn:

    Ông Phạm Văn Si, đại diện theo ủy quyền (BL.55) của Công ty XDGTSG xác nhận:

    - S có ký hợp đồng số09/TKĐTC-2001 ngày 21/5/2001 với Ban quản lý các dự án giao thông tỉnh Trà Vinh để thực hiện dự án “Cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 53 đoạn tuyến tránh qua Thị xã Trà Vinh”. Việc thực hiện thi công công trình này do Đội công trình số 14 (nay là Xí nghiệp xây dựng số 7) phụ thuộc Công ty XDGTSG do ông Trương Hữu Khiêm là đội trưởng (nay là Giám đốc Xí nghiệp) thực hiện bằng phương thức khoản gọn, lời ăn lỗ chịu thông qua hợp đồng nhận khoán số 795/XDGT ngày 19/6/2001 (BL.25-26) và số 323/XDGT ngày 03/3/2003 (BL. 22-24) ký với Công ty XDGTSG. Trong quá trình thực hiện thi công, Công ty XDGTSG đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về tài chính đối với ông Khiêm là 95% giá trị hợp đồng. Việc ông Khiêm không thanh toán cho Công ty Út Nữa là lỗi thuộc về ông Khiêm. (BL.36-37).

    - Trong số ba bản hợp đồng có tranh chấp nguyên đơn đưa ra, Công ty XDGTSG có ký hai hợp đồng không số với Công ty Út Nữa và chỉ chịu trách nhiệm thanh toán cho Công ty Út Nữa số tiền còn thiếu của hai hợp đồng này là 229.387.627 đồng. Còn Hợp đồng số 02/HĐVT ngày 28/8/2001 do ông Khiêm ký thì ông Khiêm phải chịu trách nhiệm trả (BL.115).

    3. Trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Ông Trương Hữu Khiêm – BL.116-117):

    - Không chịu trách nhiệm liên đới cùng Công ty XDGTSG trả nợ Công ty Út Nữa vì chỉ là người đại diện cho Công ty XDGTSG xác nhận khối lượng vật tư cung cấp tại công trường;

    - Ông Khiêm ký Hợp đồng số 02/HĐVT ngày 28/8/2001 đã được sự xác nhận của Công ty XDGTSG, đến nay ông Khiêm đã thanh toán cho hợp đồng này là 1.870.000.000 đồng, thừa so với giá trị của hợp đồng (1.660.000.000 đồng);

    - Yêu cầu Công ty XDGTSG phải có trách nhiệm trả tiền cho Công ty Út Nữa.

    - Quan hệ giữa ông Khiêm và Công ty XDGTSG sẽ giải quyết trong một vụ án khác.

    4. Bản án sơ thẩm:

    Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số159/2006/KDTM-ST ngày 25/9/2006 (BL.100-104), Tòa án nhân dân thị xã Trà Vinh đã quyết định:

    Buộc Công ty Xây dựng giao thông Sài Gòn và ông Trương Hữu Khiêm liên đới trả cho Công ty TNHH thương mại Út Nữa số tiền: 843.213.545 đồng. Trong đó:

    Vốn gốc: 609.258.342 đồng;

    Lãi: 233.955.203 đồng (tính đến ngày 21/9/2006).

    Buộc Công ty Xây dựng giao thông Sài Gòn và ông Trương Hữu Khiêm liên đới nộp 24.864.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

    5. Bản án phúc thẩm:

    Ngày 03/10/2006, ông Trương Hữu Khiêm có đơn kháng cáo (BL.02), không chấp nhận trách nhiệm liên đới với Công ty XDGTSG, với lý do chỉ là người thừa hành nhiệm vụ của Công ty XDGTSG.

    Tại bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số01/2006/KDTM-PT ngày 16/11/2006 (BL.148-150), Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh đã quyết định giữ nguyên bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm nêu trên.

    6. Kháng nghị giám đốc thẩm:

    Ngày 09/01/2007, ông Trương Hữu Khiêm có đơn khiếu nại giám đốc thẩm yêu cầu xem xét lại hai bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm và phúc thẩm nêu trên với lý do: Hai bản án này đã căn cứ vào hợp đồng số 02 ký ngày 28/8/2001 và xác nhận khoản nợ 609.258.342 đồng với Công ty Út Nữa đều do ông ký để buộc ông phải có trách nhiệm liên đới trả nợ cho Công ty Út Nữa là không có căn cứ pháp lý và không khách quan vì Đội thi công số 14 sau nâng cấp thành Xí nghiệp xây dựng số 7 do ông phụ trách chỉ là đơn vị phụ thuộc Công ty XDGTSG. Việc ông làm có sự thỏa thuận ký chứng thực của Giám đốc vào hợp đồng; việc xác nhận nợ giữa hai bên là của Công ty XDGTSG chứ không phải xác nhận nợ của cá nhân ông.

    Ngày 31/01/2008, bằng quyết định số02/2008/KN-KT, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số01/2006/KDTM-PT ngày 16/11/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh, yêu cầu Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm nêu trên và bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số159/2006/KDTM-ST ngày 25/9/2006 của Tòa án nhân dân thị xã Trà Vinh, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị xã Trà Vinh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật với các lý do như sau:

    - S thông qua người đại diện theo pháp luật là ông Lê Trọng – Giám đốc Công ty trực tiếp ký hai hợp đồng không số ngày 02/01/2003 (BL.09) và ngày 17/3/2003 (BL.29) với Công ty Út Nữa để mua và vận chuyển vật liệu xây dựng. Ông Trương Hữu Khiêm không liên quan đến hai bản hợp đồng này. Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm buộc ông Khiêm phải liên đới với Công ty XDGTSG trả nợ của hai bản hợp đồng này cho Công ty Út Nữa là không có căn cứ và không đúng pháp luật.

    - Hợp đồng số 02/HĐVT ngày 28/8/2001 (BL.27) do ông Trương Hữu Khiêm – Đội trưởng Đội công trình số 14 (nay là Xí nghiệp xây dựng số 7) phụ thuộc Công ty XDGTSG đại diện ký (có chữ ký xác nhận của ông Võ Quang Thái là Phó giám đốc Công ty XDGTSG) với Công ty Út Nữa (lúc này là Doanh nghiệp tư nhân Út Nữa). Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm chưa xác định rõ ông Khiêm ký vào hợp đồng này có được sự phân công hoặc ủy quyền của Công ty XDGTSG không, nếu có thì cụ thể thế nào? Để xác định trách nhiệm của ông Khiêm và Công ty XDGTSG đối với hợp đồng số 02/HĐVT ngày 28/8/2001. Nếu Công ty XDGTSG không ủy quyền, không phân công mà ông Khiêm tự ký vào hợp đồng, thì ông Khiêm phải tự chịu trách nhiệm đối với hợp đồng này.

    Tại bản Kết luận số07/KL-VKSTC-V12 ngày 3/4/2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số01/2006/KDTM-PT ngày 16/11/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh và bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số159/2006/KDTM-ST ngày 25/9/2006 của Tòa án nhân dân thị xã Trà Vinh, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị xã Trà Vinh để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    XÉT THẤY

    1. Về thủ tục tố tụng:

    1.1 Về thẩm quyền:

    Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm có thiếu sót khi không nhận định thẩm quyền giải quyết vụ án, mà mặc nhiên xác định thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh, thương mại này thuộc về Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh.

    Đây là vụ án tranh chấp về kinh doanh, thương mạ theo quy định tại điểm a “Mua bán hàng hóa” và điểm I “Vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ” khoản 1 Điều 29 BLTTDS.

    Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 33 BLTTDS, vụ án kinh doanh, thương mại về “Mua bán hàng hóa” và “Vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ” này thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện.

    Theo quy định tại khoản 120 Điều 1 Nghị quyết số742/2004/NQ-UBTVQH11 ngfay 24/12/2004, Tòa án nhân dân thị xã Trà Vinh được thực hiện thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự quy định tại Điều 33 của Bộ luật tố tụng dân sự từ ngày 01 tháng 01 năm 2005.

    Theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 36 BLTTDS, Tòa án nhân dân thị xã Trà Vinh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm vụ án kinh doanh, thương mại phát sinh do tranh cháp từ ba quan hệ hợp đồng được thực hiện tại thị xã Trà Vinh theo đơn khởi kiện của Công ty Út Nữa.

    1.2 Về thời hiệu khởi kiện:

    Ngày 10/12/2004, hai bên đương sự có lập biên bản xác nhận công nợ từ ba hợp đồng có tranh chấp trên (BL.10). Căn cứ vào quy định tại điểm a khoản 3 Điều 159, Điều 160 BLTTDS; Điều 171 Bộ luật dân sự năm 1995. Đơn khởi kiện ngày 28/9/2005 (BL.07) của Công ty Út Nữa còn trong thời hiệu khởi kiện.

    1.3 Về tính chứng cứ của tài liệu có trong hồ sơ:

    Hầu hết các tài liệu đọc được có nội dung do các đương sự giao nộp có trong hồ sơ vụ án đều là các bản sao không có công chứng, chứng thực hợp pháp. Theo quy định tại Điều 81, khoản 1 Điều 83 BLTTDS, tất cả các tài liệu này đều không có giá trị chứng cứ để giải quyết vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm giải quyết vụ án bằng các tài liệu không có giá trị chứng cứ là vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật tố tụng.

    2. Về nội dung:

    2.1. Đối với hai bản hợp đồng không số ký ngày 02/01/2003 (BL.09) và ngày 17/3/2003 (BL.29):

    Chủ thể của hai bản hợp đồng này một bên luôn là Công ty Út Nữa (bên A của hợp đồng), chủ thể bên B của hợp đồng là Công ty XDGTSG và người đại diện ký kết đều là ông Lê Trọng –Giám đốc, đại diện theo pháp luật của Công ty XDGTSG. Theo quy định tại Điều 37 Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995 và khoản 1 Điều 103 Bộ luật dân sự 1995, Công ty XDGTSG phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ theo hai bản hợp đồng nêu trên mà người đại diện theo pháp luật của Công ty nhân danh pháp nhân Công ty xác lập.

    Tại phiên tòa sơ thẩm (BL.115), đại diện hợp pháp của Công ty XDGTSG cũng xác nhận trách nhiệm trả nợ hai bản hợp đồng này thuộc về Công ty XDGTSG.

    Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm buộc ông Trương Hữu Khiêm phải liên đới cùng với Công ty XDGTSG trả nợ của hai hợp đồng này cho Công ty Út Nữa là không phù hợp với ý chí của Công ty XDGTSG và quy định của pháp luật đã viện dẫn trên.

    2.2 Đối với bản hợp đồng số 02/HĐVT ngày 28/8/2001 (BL.27-28): “Doanh nghiệp tư nhân Út Nữa” là bên A của hợp đồng ký với bên B của hợp đồng là “Đội công trình giao thông số 14 thuộc Công ty XDGTSG ” mà người đại diện ký kết hợp đồng là ông Đội trưởng Trương Hữu Khiêm, có chữ ký của ông Phó Giám đốc Võ Quang Thái và đóng dấu của Công ty XDGTSG, xác nhận tư cách đội trưởng của ông Khiêm. Theo bản hợp đồng này, bên A bán vật liệu xây dựng cho bên B để thi công “tuyến tránh quốc lộ 53” – công trình mà Công ty XDGTSG đã ký hợp đồng thi công với Ban quản lý dự án giao thông tỉnh Trà Vinh và giao cho đơn vị phụ thuộc mình là Đội công trình giao thông số 14, do ông Trương Hữu Khiêm là Đội trưởng trực tiếp thực hiện. Do Đội công trình số 14 là bộ phận phụ thuộc của Công ty XDGTSG, theo quy định tại khoản 5 Điều 100 Bộ luật dân sự 1995 và khoản 1 Điều 19 Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995, Công ty XDGTSG phải chịu trách nhiệm dân sự đối với Công ty Út Nữa theo bản hợp đồng số 02/HĐVT ngày 28/8/2001 mà đơn vị phụ thuộc mình là Đội công trình số 14 xác lập, thực hiện.

    Đội công trình số 14 ký hợp đồng số 02/HĐVT ngày 28/8/2001 mua vật liệu xây dựng của Công ty Út Nữa là để thi công dự án “Cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 53 đoạn tuyến tránh qua Thị xã Trà Vinh” mà Công ty XDGTSG đã ký với Ban quản lý dự án giao thông tỉnh Trà Vinh và giao Đội công trình số 14 (đơn vị phụ thuộc Công ty XDGTSG ) thực hiện. Công ty XDGTSG không phản đối việc ký kết hợp đồng số 02/HĐVT ngày 28/8/2001 của Đội công trình số 14 do ông Trương Hữu Khiêm đại diện và phần số liệu mà ông Trương Hữu Khiêm đã xác nhận trong Biên bản xác nhận công nợ ký ngày 10/12/2004 (BL.10, 11) với Công ty Út Nữa. Theo quy định tại các điểm a, b, c mục 2 phần I Nghị quyết số04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/5/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, người đại diện theo pháp luật của Công ty XDGTSG biết rõ việc giao kết và thực hiện bản hợp đồng này và không phản đối. Vì vậy, bản hợp đồng này có hiệu lực pháp luật (không bị vô hiệu) và phải được Công ty XDGTSG và Công ty Út Nữa thực hiện nghiêm túc.

    Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm xử buộc ông Trương Hữu Khiêm liên đới cùng với Công ty XDGTSG trả nợ của bản hợp đồng này cho Công ty Út Nữa là không đúng với tình tiết khách quan của vụ án và quy định của pháp luật đã viện dẫn trên.

    Hợp đồng “giao khoán” giữa Công ty XDGTSG với Đội công trình số 14 (BL.25-26) và Xí nghiệp xây dựng số 7 (BL.22-24) là quan hệ trong nội bộ Công ty XDGTSG, độc lập với các tranh chấp trong vụ án này. Nếu có tranh chấp và các bên có yêu cầu, Tòa án sẽ giải quyết trong một vụ án khác.

    Từ những nhận định trên,

    Căn cứ vào khoản 2 Điều 291; khoản 3 Điều 297; khoản 1, 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

    HỘI ĐỒNG GIÁM ĐỐC THẨM

    QUYẾT ĐỊNH

    Chấp nhận yêu cầu kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

    Hủy bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số01/2006/KDTM-PT ngày 16/11/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh và bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số159/2006/KDTM-ST ngày 25/9/2006 của Tòa án nhân dân thị xã Trà Vinh , giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị xã Trà Vinh để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Quyết định này có hiệu lực pháp luật.

    CÁC THẨM PHÁN

    Bùi Thế Linh Nguyễn Ngọc Vân
    (Đã ký) (Đã ký)
    THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
    Bùi Huy Tiến

    (Đã ký)

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 25/05/2013 10:55:32 SA
     
    3921 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận