Quyết định giám đốc thẩm số: 05/2009/KDTM-GĐT ngày 12 tháng 3 năm 2009 về việc tranh chấp hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất

Chủ đề   RSS   
  • #263942 24/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số: 05/2009/KDTM-GĐT ngày 12 tháng 3 năm 2009 về việc tranh chấp hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất

    Số hiệu

    05/2009/KDTM-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số:05/2009/KDTM-GĐT ngày 12 tháng 3 năm 2009 về việc tranh chấp hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất

    Ngày ban hành

    12/03/2009

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Kinh tế

     

    TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

    TÒA KINH TẾ

    ------------------

    Quyết định giám đốc thẩm

    Số:05/2009/KDTM-GĐT

    Ngày 12 tháng 3 năm 2009

    V/v: tranh chấp hợp đồng cho thuê

    quyền sử dụng đất…

    CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
    Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
    ----------------------------------

     

    NHÂN DANH

    NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

    TÒA KINH TẾ

    TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI

    Với thành phần Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:

    Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Thế Linh;

    Các Thẩm phán: Bà Bùi Thị Hải;

    Ông Nguyễn Văn Tiến.

    Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Ông Phạm Ngọc Bình-Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

    Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Nguyễn Đức Thường.

    Ngày 12 tháng 3 năm 2009, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại theo Quyết định kháng nghị số20/KN-VKSTC-V12 ngày 12/12/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số06/2007/KDTM-PT ngày 18/12/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau về tranh chấp hơp đồng kinh tế “Về việc tính giá trị đất cho thuê ở Công ty cổ phần vật tư bao bì Tiến Hải” giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau ; Trụ sở chính: số 8 đường Cao Thắng, khóm 7, phường 8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau;

    Bị đơn: Công ty cổ phần vật tư bao bì Tiến Hải; trụ sở chính: số 7 đường Cao Thắng, khóm 7, phường 8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau;

    NHẬN THẤY

    Theo đơn khởi kiện đề ngày 20/4/2004 và các tài liệu do Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau xuất trình thì:

    Ngày 10/9/1994, Công ty XNK thủy sản Minh Hải (sau được cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau ) có ký hợp đồng kinh tế số 06/HDKT với Công ty cổ phần vật tư bao bì Tiến Hải (sau đây viết tắt là Công ty Tiến Hải ) với nội dung (tóm tắt) như sau:

    Công ty Tiến Hải được thuê 1.145mđể xây dựng trụ sở kinh doanh và xưởng sản xuất, phân theo thời gian đã sử dụng: Từ ngày 27/7/1002 đến ngày 31/12/1994 (17 tháng) đã sử dụng 640,10m2; từ ngày 31/12/1992 đến ngày 31/12/1993 (12 tháng) đã mở rộng thêm diện tích sử dụng 244m2; từ ngày 30/8/1994 đến ngày 31/12/1994 (4 tháng) mở rộng thêm diện tích sử dụng 260,90m2; từ ngày 01/01/1995 được tính chung diện tích 1.145 m2, giá trị và cách thanh toán: của năm 1994 là 27.478.605 đồng, từ năm 1995 lấy diện tích chung là 1.145m. Hợp đồng thuê đất được tính cho thời gian 10 năm theo đúng Điều lệ của Công ty Tiến Hải. Đến ngày 12/9/1997, hai bên ký tiếp Phụ kiện hợp đồng số 01/PKHĐ, theo đó xác định diện tích sử dụng đất thuê của Công ty Tiến Hải là 1442,5m2 gồm nhà xưởng là 1080m2, diện tích mở rộng và sân là 362,5m2, đơn giá thuê đất là 1850 đồng/m2/tháng. Hai bên sẽ đối chiếu hàng tháng, thanh toán dứt điểm.

    Thực hiện hợp đồng thuê đất, Công ty Tiến Hải hàng tháng nộp tiền thuê đất cho Công ty XNK thủy sản Minh Hải, sau này nộp cho Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau cho đến hết năm 2004. Từ năm 2005, Công ty Tiến Hải không nộp tiền thuê đất, giữa hai bên phát sinh tranh chấp về quyền sử dụng đất đối với diện tích 1442,5m2. Từ ngày 26/8/2004 đến ngày 04/4/2005, Công ty XNK thủy sản Minh Hải, sau đó là Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau có 05 thông báo yêu cầu Công ty Tiến Hải phải trả lại mặt bằng, nguyên trạng xây dựng cho Công ty (Bên cho thuê đất). Do Công ty Tiến Hải không đồng ý trả nên Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau đã khởi kiện đến Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau với các yêu cầu: buộc Công ty Tiến Hải trả lại phần đất đã thuê; hoàn trả tiền thuê đất từ tháng 1/2005 đến nay và yêu cầu bồi thường thiệt hại do việc thi công chậm kho lạnh nên Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau đã phải thuê kho lạnh. Đơn khởi kiện của Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau đã được Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau thụ lý ngày 10/5/2005. Trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau rút yêu cầu về đòi bồi thường thiệt hại.

    Còn đại diện của Công ty Tiến Hải thì thừa nhận có ký hợp đồng thuê đất với Công ty XNK thủy sản Minh Hải. Thực chất việc thuê đất này là thuê của Nhà nước và nộp tiền thông qua Công ty XNK thủy sản Minh Hải. Trong biên bản xác định giá trị doanh nghiệp ngày 16/7/2002 của Công ty Tiến Hải thì Công ty đã có kiến nghị được tiếp tục thuê tiếp và vì điều lệ của Công ty có thời gian hoạt động là 20 năm. Từ đó, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau.

    Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số04/2007/KDTM-ST ngày 05/9/2007, TAND thành phố Cà Mau đã căn cứ vào các Điều: 703, 705, 706, 707, 713 và Điều 714 Bộ luật dân sự và quyết định: “Bác yêu cầu của Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau kiện đòi Công ty cổ phần vật tư bao bì Tiến Hải phần đất có diện tích 1442,5mtọa lạc tại số 7 đường Cao Thắng, khóm 7, phường 8, thành phố Cà Mau và khoản tiền thuê đất là 93.935.584 đồng”.

    Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 10/9/2007, Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau có đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm nêu trên.

    Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số06/2007KDTM-PT ngày 18/12/2007, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau đã căn cứ vào khoản 2 Điều 275, Điều 276 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 703, 706, 706, 709 và Điều 713 Bộ luật dân sự và quyết định: “Buộc Công ty cổ phần vật tư bao bì Tiến Hải di dời phần kiến trúc, trả lại phần diện tích 1442,5mđất thuê và 93.935.584 đồng cho Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau. Vị trí đất tại thửa số 12 tờ bản đồ số 58 (định vị từ mốc 1119-1122, 1113-1119 theo bản đồ hiện trạng đo vẽ ngày 23/8/2007) tọa lạc tại khóm 7, phường 8, thành phố Cà Mau”.

    Sau khi xét xử phúc thẩm, Công ty Tiến Hải có đơn khiếu nại giám đốc thẩm với nội dung không đồng ý trả lại 1442,5m2đất và trả số tiền thuê đất là 93.935.584 đồng cho Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau với lý do khi cổ phần hóa Công ty XNK thủy sản Minh Hải, giá trị quyền sử dụng đất không đưa vào giá trị tài sản của doanh nghiệp nên phần diện tích này thuộc quyền quản lý của Nhà nước. Ngoài ra, ngày 02/12/2008, hai cơ quan gồm Thi hành án dân sự tỉnh Cà Mau và Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Cà Mau có Văn bản số111/KN-THA-TNMT đề nghị xem xét kháng nghị bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm nêu trên của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau với nội dung: diện tích đất tranh chấp trước đây thuộc quyền sử dụng cảu Công ty XNK thủy sản Minh Hải, khi Công ty này cổ phần hóa thì quyền sử dụng đất không được định giá để đưa vào giá trị tài sản của doanh nghiệp nên Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau không được kế thừa quyền sử dụng đất của Công ty XNK thủy sản Minh Hải. Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau đã thu lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Công ty XNK thủy sản Minh Hải trước khi Công ty này cổ phần hóa và đổi tên thành Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau. Vì vậy, nếu buộc Công ty Tiến Hải giao đất cho Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau thì không có căn cứ vì cả hai Công ty này đều chưa được Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho thuê đất theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, hai cơ quan trên còn cho rằng, khi xét xử, Tòa án cấp phúc thẩm chưa xem xét đến kết luận và kiến nghị của cơ quan chuyên môn trong việc quản lý và sử dụng phần đất tranh chấp. Từ đó đề nghị kháng nghị bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm nêu trên theo hướng hủy bản án, giao vụ việc cho Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau giải quyết.

    Tại Quyết định số20/KN-VKSTC-V12 ngày 12/12/2008, Viện trưởng VKSNDTC đã kháng nghị đối với Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số06/2007KDTM-PT ngày 18/12/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Minh Hải với nhận định như sau: Công ty XNK thủy sản Minh Hải được Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau giao quyền sử dụng đất bằng Giấy CNQSDĐ số 214-QD/UB ngày 04/7/1994 với diện tích là 7431m2, đến ngày 10/9/1994 Công ty này ký hợp đồng số 06 cho Công ty Tiến Hải thuê 1442,5m2. Theo Điều 6 Luật đất đai năm 1993 và điểm a khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì Hợp đồng số 06 nêu trên là bất hợp pháp cho nên được xử lý theo điểm c khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 39 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế. Tại thời điểm khởi kiện của nguyên đơn thì hợp đồng số 06 nêu trên cũng là bất hợp pháp theo quy định tại Điều 15 Luật Đất đai 2003 và Điều 128 Bộ luật dân sự và việc sử lý hậu quả đối với giao dịch vô hiệu theo khoản 2 Điều 137 Bộ luật dân sự “lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật”. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng Hợp đồng số 06 là hợp pháp là không đúng và việc xử lý buộc Công ty Tiến Hải phải di dời phần kiến trúc, trả lại diện tích đất 1442,5m2 và trả tiền thuê đất 93.935.584 đồng cho Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau là không đúng quy định của pháp luật. Từ đó khẳng định đề nghị Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm để hủy bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm và bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại theo quy định của pháp luật.

    Sau khi có Quyết định kháng nghị nêu trên, ngày 24/12/2008, Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau có Đơn số296/ĐN-CTY với nội dung cho rằng kháng nghị nêu Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau sử dụng sai mục đích đất là không có cơ sở vì năm 1992, Công ty XNK thủy sản Minh Hải kêu gọi các nhà đầu tư góp vốn, từ đó hình thành Công ty cổ phần vật tư bao bì Tiến Hải; vốn điều lệ của Công ty XNK thủy sản Minh Hải chiếm 37,52% trong vốn điều lệ của Công ty Tiến Hải; về hình thức thì hợp đồng số 06 là hợp đồng thuê đất nhưng bản chất vẫn là đất của Công ty XNK thủy sản Minh Hải vì Công ty đã bỏ vốn đầu tư trên đất thuê, giá thuê chính là tiền thuê đất Công ty phải nộp cho Nhà nước, không phải cho thuê để tạo ra lợi tức. Đến năm 2003, Công ty XNK thủy sản Minh Hải đã bán phần vốn góp của mình cho Công ty Tiến Hải. Khi đó biết Công ty không có chức năng cho thuê đất nên Công ty đã có thông báo thu hồi đất; việc Ủy ban nhân dân tỉnh thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước khi Công ty XNK thủy sản Minh Hải cổ phần hóa là vì Công ty này là Doanh nghiệp nhà nước, Phòng Công sản thuộc Sở Tài chính thu hồi giấy để quản lý, Quyết định số 214-QĐ/UB ngày 04/7/1994 của Ủy ban nhân dân tỉnh Minh Hải vẫn có hiệu lực, Công ty XNK thủy sản Minh Hải vẫn nộp đủ tiền thuê đất. Khi Công ty XNK thủy sản Minh Hải cổ phần hóa là theo Nghị định số64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 của Chính phủ nên chưa có chủ trương đưa đất để định giá, đưa vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa. Ngoài ra, trong phương án cổ phần hóa có nội dung Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau xây dựng kho lạnh 1000 tấn, vị trí đất hiện nay do Công ty Tiến Hải đang tọa lạc. Mặt khác, trong biên bản bàn giao tài sản và nguồn vốn ngày 31/10/2004 giữa Công ty XNK thủy sản Minh Hải với Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau đã thực hiện việc giao đất cho Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau là 12.672,4m2, trong đó có 7431mtheo Quyết định số 214-QĐ/UB ngày 04/7/1994 của Ủy ban nhân dân tỉnh Minh Hải… Từ đó, đề nghị không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và giữ nguyên bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.

    XÉT THẤY

    Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì ngày 10/9/1994, Công ty XNK thủy sản Minh Hải và Công ty Tiến Hải đã ký Hợp đồng kinh tế số 06/HĐKT để xác định giá trị đất cho thuê ở Công ty cổ phần vật tư bao bì Tiến Hải ; theo đó từ ngày 27/7/1992, Công ty Tiến Hải đã thuê, sử dụng đất của Công ty XNK thủy sản Minh Hải. Theo Phụ kiện hợp đồng số 01/PKHĐ ký ngày 12/9/1997 giữa hai Công ty trên thì Công ty Tiến Hải sử dụng diện tích đất thuê là 1442,5m2, bao gồm nhà xưởng là 1080m2, diện tích mở rộng và sân là 362,5m2Hàng tháng, Công ty Tiến Hải trả tiền thuê đất cho Công ty XNK thủy sản Minh Hải, sau này là Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau cho đến hết năm 2004. Tại Quyết định số698/QĐ-CTUB ngày 06/10/2004 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau thì Công ty XNK thủy sản Minh Hải được chuyển thành Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau. Theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị định số64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 của Chính phủ về việc chuyển Doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần thì Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau “…kết thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp Nhà nước trước khi cổ phần hóa và có các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”. Trên thực tế, Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau đã kế thừa quyền và nghĩa vụ Công ty XNK thủy sản Minh Hải bằng việc tiếp tục thực hiện Hợp đồng số 06/HĐKT ngày 10/9/1994 với thời hạn thuê sử dụng đất từ ngày Công ty Tiến Hải được cấp Giấy phép đăng ký kinh doanh (ngày 24/7/1992), thực tế thuê quyền sử dụng đất từ ngày 27/7/1992 và Phụ kiện hợp đồng số 01/PKHĐ ngày 12/9/1997 thì việc Công ty XNK thủy sản Minh Hải cho Công ty Tiến Hải thuê, sử dụng 1442,5m2 trong diện tích được giao quyền sử dụng đất là 7431m2 là không phù hợp với quy định tại Điều 6 Luật Đất đai năm 1993, cụ thể “Nghiêm cấm việc…sử dụng đất không đúng mục đích được giao đồng thời tham khảo quy định của Điều 15 Luật Đất đai năm 2003 thì việc cho thuê diện tích đất nêu trên cũng không phù hợp với mục đích sử dụng đất là sử dụng để xây dựng nhà máy Đông lạnh. Quyết định số20/KN-VKSTC-V12 ngày 12/12/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận định Hợp đồng số 06/HĐKT ngày 10/9/1994 và Phụ kiện hợp đồng số 01/PKHĐ ngày 12/9/1997 ký giữa Công ty XNK thủy sản Minh Hải với Công ty Tiến Hải vô hiệu toàn bộ theo điểm a khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế là có căn cứ. Tuy nhiên, Quyết định kháng nghị nêu trên cho rằng cần áp dụng khoản 2 Điều 137 Bộ luật dân sự để xử lý “Lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật” là không có căn cứ, bởi vì theo hồ sơ vụ án thì toàn bộ số tiền thuê đất theo đơn giá của Ủy ban nhân dân tỉnh Minh Hải, hay sau này là Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau đều được tính đúng và đủ, Công ty Tiến Hải nộp cho Công ty XNK thủy sản Minh Hải, sau này là Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau và Doanh nghiệp cho thuê đất đều nộp đúng và đủ cho Nhà nước, không phát sinh thêm khoản lợi tức nào khác.

    Với những nhận định trên thì Hợp đồng số 06/HĐKT và Phụ kiện hợp đồng số 01/PKHĐ ký giữa Công ty XNK thủy sản Minh Hải với Công ty Tiến Hải đã bị vô hiệu toàn bộ. Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào thời hạn có hiệu lực của Hợp đồng số 06/HDKT… để chấm dứt việc thực hiện Hợp đồng số 06/HĐKTđã ký giữa hai bên là có cơ sở nhưng do nhận định cho rằng Hợp đồng số 06/HĐKT là có hiệu lực nên đã có thiếu sót khi xử lý tài sản đối với Hợp đồng kinh tế bị vô hiệu toàn bộ, bởi vì căn cứ quy định tại điểm 2 Mục II Nghị quyết số04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/5/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì “Đối với tài sản là bất động sản hoặc quyền sử dụng đất. Về nguyên tắc, việc xử lý tài sản là bất động sản hoặc quyền sử dụng đất là buộc bên đã nhận được tài sản từ việc thực hiện hợp đồng kinh tế phải hoàn trả cho bên giao tài sản. Trong trường hợp bên đã nhận được tài sản tháo dỡ, sửa chữa, làm thêm mới, đầu tư làm tăng giá trị của tài sản đó, thì tùy từng trường hợp cụ thể mà buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu, tháo dỡ hoặc thanh toán tiền cho nhau, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác không trái pháp luật”. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì giữa Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau và Công ty Tiến Hải không có sự thỏa thuận về việc xử lý tài sản do việc chấm dứt thực hiện Hợp đồng số 06/HĐKT và Phụ kiện hợp đồng số 01/PKHĐ. Hồ sơ vụ án cũng không có tài liệu nào thể hiện khi cho thuê đất thì Công ty XNK thủy sản Minh Hải có bàn giao tài sản trên đất (nhà xưởng) cho Công ty Tiến Hải sử dụng hay không? Nếu có là tài sản gì, trị giá bao nhiêu? và tỷ lệ khấu hao? và trong thời gian thuê, sử dụng đất, Công ty Tiến Hải có tháo dỡ hay sửa chữa tài sản thuê, hoặc có làm thêm mới, đầu tư làm tăng giá trị của tài sản đó. Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số06/2007/KDTM-PT ngày 18/12/2007, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ quyết định “buộc Công ty cổ phần vật tư bao bì Tiến Hải di dời phần kiến trúc, trả lại phần diện tích 1442,5m2 đất thuê…cho Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau …” mà không làm rõ nội dung của phần kiến trúc di dời theo quy định của pháp luật đã dẫn ở trên. Vì vậy, cần phải hủy án kinh doanh, thương mại nêu trên và bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số04/2007/KDTM-ST ngày 05/9/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật theo hướng dẫn đã nhận định ở trên.

    Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa án các cấp và sau khi xét xử phúc thẩm, cơ quan có liên quan đến lĩnh vực quản lý đất đai và chính Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau cũng thừa nhận đã có việc Cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ban hành kèm theo Quyết định số 214-QĐ/UB ngày 04/7/1994 của Ủy ban nhân dân tỉnh Minh Hải cấp cho Công ty XNK thủy sản Minh Hải trước khi Công ty này được cổ phần hóa thành Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau. Tuy nhiên, lý do thu hồi lại Quyết định số 214 nêu trên được các bên, cơ quan liên quan trình bày khác nhau, đồng thời trong hồ sơ vụ án không có tài liệu nào xác định đã có sự việc trên và bằng quyết định nào, nội dung ra sao (nếu có)? Những nội dung này chưa được Tòa án các cấp điều tra, xác minh, thu thập để làm rõ. Theo quy định có liên quan của Luật Đất đai, giả sử, trong trường hợp Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau đã có Quyết định thu hồi Quyết định số 214 nêu trên và chưa có quyết định giao đất hay cho thuê đất đối với Công ty cổ phần thủy sản Cà Mau hay Công ty Tiến Hải thì việc Tòa án cấp phúc thẩm quyết định theo bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số06/2007/KDTM-PT ngày 18/12/2007 là không phù hợp và vượt quá thẩm quyền, bởi vì thẩm quyền này là của Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau. Do đó, trong quá trình giải quyết lại vụ án từ giai đoạn sơ thẩm, căn cứ kết quả điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ, Tòa án cấp sơ thẩm cần xem xét, đánh giá để quyết định có đưa vào tham gia với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án này hay không.

    Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và khoản 1, khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

    QUYẾT ĐỊNH

    1. Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số06/2007/KDTM-PT ngày 18/12/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số04/2007/KDTM-ST ngày 05/9/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau (Tỉnh Cà Mau) để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    CÁC THẨM PHÁN

    Nguyễn Văn Tiến  - Bùi Thế Linh

    (Đã ký)  - (Đã ký)

    THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

    Bùi Thị Hải

    (Đã ký)

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 24/05/2013 04:04:12 CH
     
    3819 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận