Quyết định giám đốc thẩm số 01/2005/HĐTP-DS ngày 26-1-2005 về vụ án “tranh chấp nhà đất”

Chủ đề   RSS   
  • #264803 28/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số 01/2005/HĐTP-DS ngày 26-1-2005 về vụ án “tranh chấp nhà đất”

    Số hiệu

    01/2005/HĐTP-DS

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số01/2005/HĐTP-DS ngày 26-1-2005 về vụ án “tranh chấp nhà đất”

    Ngày ban hành

    26/01/2005

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     


    Quyết định giám đốc thẩm số 01/HĐTP-DS

    ngày 26-1-2005 về vụ án “tranh chấp nhà đất”

    hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

    ...

    Ngày 26 tháng 1 năm 2005, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự về tranh chấp nhà, đất giữa các đương sự là:

    Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Dung, trú tại tổ 12 phố Lê Văn Tám, phường Đồng Tâm, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.

    Bị đơn: Bà Đinh Thị Tuyết, trú tại tổ 12 phố Lê Văn Tám, phường Đồng Tâm, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đinh Gia Lượng, trú tại tổ 4-4/12 Dốc Bác Cổ, phường Chương Dương, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội

    Nhận thấy:

    Bà Nguyễn Thị Dung trình bày có nội dung tóm tắt như sau: Năm 1974 vợ chồng bà được Uỷ ban nhân dân xã Minh Bảo, huyện Trấn Yên cấp cho một lô đất để làm nhà. Chiều dài lô đất theo mặt đường quốc lộ 13 cũ là 45m. Năm 1979 vợ chồng bà đã xây một ngôi nhà 5 gian mái bằng trên đất được cấp. Năm 1986 bà Đinh Thị Tuyết là em ruột ông Đinh Gia Lượng (chồng bà Dung) từ huyện Yên Bình chuyển về xin ở nhờ hai gian nhà, đến năm 2000 bà Tuyết tự ý sửa hai gian nhà ở nhờ. Thấy bà Tuyết có ý chiếm đoạt hai gian nhà và đất mà bà Tuyết đang sử dụng, nên bà Dung khởi kiện yêu cầu bà Tuyết trả lại hai gian nhà và đất ở nhờ.

    Bà Đinh Thị Tuyết trình bày có nội dung tóm tắt như sau: Năm 1979 bà được anh trai là ông Đinh Gia Lượng chuyển nhượng cho một phần đất để làm nhà, nhưng ngày 10-10-1982 mới viết giấy chuyển nhượng đất. Năm 1979 bà đã xây hai gian nhà chung tường với nhà ông Lượng bà Dung, do bà xây trước nên đổ mái thấp hơn nhà bà Dung, ông Lượng.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 06 ngày 22-9-2000 Toà án nhân dân thị xã Yên Bái quyết định:

    1- Buộc bà ĐinhThị Tuyết phải có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị Dung hai gian nhà xây trên diện tích đất thổ cư có diện tích là 330m2 nhà và đất ở tổ 12, phường Đồng Tâm, thị xã Yên Bái trong thời hạn 2 tháng kể từ ngày tuyên án bà Tuyết phải giao lại nhà cho bà Dung.

    2- Về án phí:

    - Bà Nguyễn Thị Dung không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm, được hoàn lại 1.000.000 đồng tiền dự phí đã nộp.

    - Bà Đinh Thị Tuyết phải chịu 2.200.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

    Ngày 5-10-2000 bà Đinh Thị Tuyết và ông Đinh Gia Lượng có đơn kháng cáo với nội dung ông Lượng đã viết giấy nhượng 1/2 lô đất cho bà Tuyết và đã được phường Yên Thịnh xác nhận.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 34/PTDS ngày 22-11-2000 Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái quyết định:

    Bác yêu cầu kháng cáo của bà Đinh Thị Tuyết, y toàn bộ án sơ thẩm như sau: Buộc bà Đinh Thị Tuyết phải có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị Dung hai gian nhà xây trên diện tích đất thổ cư có diện tích 330m2, nhà và đất ở tổ 12, phường Đồng Tâm, thị xã Yên Bái, bà Tuyết được lưu cư trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

    Về án phí bà Nguyễn Thị Dung không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm, được hoàn lại 1.000.000 đồng tạm ứng án phí.

    Bà Đinh Thị Tuyết phải chịu 2.2000.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

    Sau khi xử phúc thẩm bà Tuyết và ông Lượng tiếp tục khiếu nại.

    Tại Quyết định số 228 ngày 27-12-2001 Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án phúc thẩm nêu trên với lý do: Nhà đất tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng ông Lượng, bà Dung do đó một mình ông Lượng ký giấy bán cho bà Tuyết là không đúng. Bản án không tuyên huỷ hợp đồng mua bán giữa ông Lượng và bà Tuyết, không giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu là sai. Mặt khác bản án chỉ tuyên buộc bà Tuyết trả hai gian nhà và đất cho bà Dung, trong khi nhà đất là tài sản chung của ông Lượng và bà Dung.

    Tại Quyết định giám đốc thẩm số 44 ngày 21-3-2002 Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao quyết định huỷ cả bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 01 ngày 09-9-2002 Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái quyết định:

    - Huỷ giấy chuyển nhượng đất làm nhà do ông Đinh Gia Lượng viết 
    ngày 10-10-1982 nhượng đất cho bà Đinh Thị Tuyết.

    - Buộc bà Đinh Thị Tuyết trả lại diện tích đất đã được xác định 
    ngày 23-7-2002 là 328,4m2 cho vợ chồng bà Nguyễn Thị Dung và ông Đinh 
    Gia Lượng.

    - Hai gian nhà xây có diện tích 57,5m2 hiện bà Đinh Thị Tuyết đang ở và sử dụng thuộc quyền sở hữu của bà Tuyết. Giao hai gian nhà xây 57,5m2 trị giá 34.933.000 đồng cho vợ chồng bà Nguyễn Thị Dung và ông Đinh Gia Lượng, bà Dung phải thanh toán trị giá hai gian nhà trả bà Tuyết là 34.933.000 đồng.

    Ngày 10-9-2002 bà Tuyết kháng cáo với nội dung: xin được sở hữu nhà và sử dụng đất.

    Ngày 17-9-2002 bà Nguyễn Thị Dung kháng cáo với nội dung: Hai gian nhà bà Tuyết đang ở là của vợ chồng bà, bản án buộc bà phải thanh toán giá trị hai gian nhà cho bà Tuyết là sai.

    Tại Quyết định số 01 ngày 20-9-2002 Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái đã kháng nghị bản án sơ thẩm trên với nội dung: Bản án sơ thẩm buộc bà Dung thanh toán giá trị hai gian nhà cho bà Tuyết là không đúng với thực tế.

    Tại bản án phúc thẩm dân sự số 85/DSPT ngày 26-5-2003 Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định:

    - Huỷ giấy nhượng đất đề ngày 10-10-1982 giữa ông Đinh Gia Lượng và bà Đinh Thị Tuyết.

    - Xác nhận diện tích đất 328,4m2 tại tổ 12 phường Đồng Tâm, thị xã Yên Bái thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà Nguyễn Thị Dung và ông Đinh Gia Lượng.

    - Xác nhận hai gian nhà xây diện tích 57,5m2 nằm trong ngôi nhà 5 gian (hiện do bà Tuyết đang ở) thuộc quyền sở hữu của vợ chồng bà Nguyễn Thị Dung và ông Đinh Gia Lượng.

    - Buộc bà Đinh Thị Tuyết phải trả lại hai gian nhà và diện tích đất 328,4m2 nói trên cho vợ chồng ông Đinh Gia Lượng và bà Nguyễn Thị Dung sở hữu, sử dụng. Trước mắt giao cho bà Nguyễn Thị Dung quản lý sử dụng.

    Sau khi xử phúc thẩm bà Đinh Thị Tuyết và ông Đinh Gia Lượng tiếp tục khiếu nại.

    Tại Quyết định số 54/KNDS ngày 30-7-2004 Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm nêu trên với nhận định: “chưa có căn cứ để khẳng định diện tích đất tranh chấp là của vợ chồng bà Dung và ông Lượng. Bởi vậy cần phải kháng nghị bản án phúc thẩm dân sự số 85/DSPT ngày 26-5-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội để xét xử lại trên cơ sở đưa ông Đinh Văn Quang tham gia tố tụng để điều tra làm rõ có việc ông Quang chuyển giao quyền sử dụng đất cho vợ chồng bà Dung, ông Lượng không? Nếu không có căn cứ thì diện tích đất tranh chấp vẫn thuộc quyền sử dụngcủa ông Đinh Văn Quang và trong trường hợp này thì nhà, công sức duy trì, tu bổ đất và tài sản khác của vợ chồng bà Dung, ông Lượng phải được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật để đảm bảo quyền lợi của các đương sự”.

    Tại phiên toà giám đốc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao có ý kiến nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xử huỷ bản án phúc thẩm dân sự số 85/DSPT ngày 26-5-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án dân sự sơ thẩm số 01 ngày 09-9-2002 của Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái, giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái xét xử lại sơ thẩm.

    xét thấy:

    Căn cứ vào chứng cứ trong hồ sơ vụ án thì không có tài liệu nào thể hiện ông Đinh Văn Quang chuyển giao quyền sử dụng đất cho ông Đinh Gia Lượng vào ngày 9-9-1974, mà chỉ có nhận thực của Uỷ ban nhân dân xã Minh Bảo vào đơn của ông Đinh Gia Lượng tự viết gửi Uỷ ban nhân dân xã Minh Bảo có nội dung: “Uỷ ban nhân dân xã Minh Bảo xác nhận việc chuyển giao khu vực đất đai do ông Quang đã xin và Uỷ ban nhân dân xã Minh Bảo đã cấp ngày 9-9-1974 cho ông Lượng là anh trai ông Quang là đúng”. Nay ông Đinh Văn Quang có đơn khiếu nại khẳng định nguồn gốc đất tranh chấp là của ông và ông chưa cho vợ chồng bà Dung, ông Lượng. Tại Biên bản cuộc họp xác minh lịch sử đất 
    ngày 3-7-2003, Uỷ ban nhân dân xã Minh Bảo khẳng định diện tích đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của ông Đinh Văn Quang. Nhưng Toà án các cấp trong quá trình xét xử sơ thẩm, phúc thẩm trước đây không xác minh làm rõ nguồn gốc đất đang tranh chấp là của ai mà cho rằng đất đang tranh chấp là của vợ chồng ông Đinh Gia Lượng, bà Nguyễn Thị Dung là không đúng. Mặt khác, cơ sở để khẳng định phần đất bà Tuyết đang ở là của vợ chồng ông Đinh Gia Lượng, bà Nguyễn Thị Dung chưa vững chắc vì đến nay chính ông Đinh Gia Lượng vẫn khẳng định phần nhà này là của bà Đinh Thị Tuyết làm. Bởi vậy, cần phải huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 85/DSPT ngày 26-5-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án dân sự sơ thẩm số 01 ngày 09-9-2002 của Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái để giải quyết lại vụ án theo hướng đưa vợ chồng ông Đinh Văn Quang tham gia tố tụng và xác minh làm rõ nguồn gốc đất tranh chấp cũng như phần nhà bà Đinh Thị Tuyết đang ở là do ai bỏ tiền ra xây dựng. Nếu xác định diện tích đất đang tranh chấp vẫn thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Đinh Văn Quang và ông Đinh Văn Quang chưa chuyển nhượng cho vợ chồng ông Đinh Gia Lượng, bà Nguyễn Thị Dung thì phải xem xét đến công duy trì, tu bổ đất và các tài sản khác của vợ chồng ông Đinh Gia Lượng, bà Nguyễn Thị Dung và của bà Đinh Thị Tuyết để giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

    Bởi lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297, khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

    Quyết định:

    - Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 85/DSPT ngày 26-5-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án dân sự sơ thẩm số 01 ngày 09-9-2002 của Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái về việc tranh chấp nhà đất giữa bà Nguyễn Thị Dung và bà Đinh Thị Tuyết.

    - Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái giải quyết sơ thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

    ____________________________________________

    - Lý do huỷ bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm:

    1. Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xác minh làm rõ nguồn gốc đất đang tranh chấp;

    2. Chưa có cơ sở để khẳng định nhà trên đất đang tranh chấp là của nguyên đơn.

    - Nguyên nhân dẫn đén việc huỷ bản án phúc thẩm và sơ thẩm:

    Thiếu sót trong việc thu thập chứng cứ.

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 28/05/2013 03:57:51 CH
     
    2627 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận