Quyết định giám đốc sơ thẩm số 13/2008/KDTM-GĐT ngày 09-10-2008 về vụ án tranh chấp hợp đồng xây dựng

Chủ đề   RSS   
  • #264111 25/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc sơ thẩm số 13/2008/KDTM-GĐT ngày 09-10-2008 về vụ án tranh chấp hợp đồng xây dựng

    Số hiệu

    13/2008/KDTM-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc sơ thẩm số13/2008/KDTM-GĐT ngày 09-10-2008 về vụ án tranh chấp hợp đồng xây dựng

    Ngày ban hành

    09/10/2008

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Kinh tế

     

    Quyết định giám đốc sơ thẩm số13/2008/KDTM-GĐT ngày 09-10-2008 về vụ án tranh chấp hợp đồng xây dựng

    HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

    …….

    Ngày 09 tháng 10 năm 2008, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án tranh chấp về hợp đồng xây dựng giữa:

    Nguyên đơn: Tổng Công ty điện lực Việt Nam; có trụ sở tại nhà số 18 Trần Nguyên Hãn, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội; do ông Nguyễn Mạnh Long đại diện, theo ủy quyền của Tổng Giám đốc Công ty điện lực Việt Nam.

    Bị đơn: Công ty TNHH PREZIOSO Việt Nam ( nay là Công ty Viva-Blast Việt Nam); có trụ sở tại khu công nghiệp Bình Chiểu, phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh; do bà Nguyễn Thu Thủy đại diện, theo ủy quyền của Tổng Giám đốc Công ty.

    NHẬN THẤY:

    Ngày 16-9-1999, Tổng công ty Điện lực Việt Nam (sau đây gọi tắt là EVN) có đơn khởi kiện vụ án tại Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai ( BL.01-08; 10b-10c).

    Ngày 06-3-2000, Công ty TNHH Prezioco Việt Nam có đơn phản tố và được Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai thụ lý (BL.755-762).

    1. Theo đơn khởi kiện và trình bày của nguyên đơn trong quá trình tố tụng thì:

    a. Về ký kết hợp đồng

    ngày 19-12-1997, Ban quản lý dự án nhà máy thủy điện Yaly ( viết tắt là bên A) và Công ty TNHH Prezioco Việt Nam (viết tắt là bên B hoặc Pre) ký kết với nhau hợp đồng kinh tế số 875 ĐVN/TĐIL-2 (BL.15-21) về giao nhận thầu cung cấp sơn và thi công sơn công trình thủy điện Yaly cùng hai bản phụ lục số 1 ( Tiến độ cung cấp sơn và chất phụ gia - BL.22-23) và số 2 ( Đặc tính kỹ thuật thi công - BL.24-27).

    Ngày 14-01-1998, hai bên ký tiếp Phụ lục số 3 (BL.28-29) và ngày 04-7-1998, ký tiếp phụ lục số 4 (BL.30-31), điều chỉnh hợp đồng số 785 ĐVN/TĐIL-2.

    Nội dung của bản hợp đồng và bốn phụ lục trên có liên quan đến tranh chấp gồm:

    - Bên A giao cho bên B cung cấp sơn và thi công toàn bộ công việc sơn phủ cho kết cấu kim loại, đường ống và thiết bị nhà máy thủy điện Yaly (Điều 1)

     - Khối lượng tạm tính  là 159.000m    …

    Khối lượng này sẽ được tính toán chính xác và thanh toán theo nghiệm thu thực tế khi thi công ( Điều 2)

    - Tiến độ: Bên B tiến hành chuẩn bị tạo dựng công trường và thi công ngay sau khi hợp đồng có hiệu lực để đảm bảo tiến độ khởi công tổ máy I vào đầu năm 1999 cho đến khi hoàn thành toàn bộ nhà máy.

    Tiến độ thi công chi tiết sẽ được hai bên chuẩn xác cho hàng tuần, hàng tháng phù hợp với tiến độ của Nhà thầu gia công và Nhà thầu lắp đặt ( Điều 4);

    - Giá trị hợp đồng ( Điều 5 ).Tạm tính là 2.005.200,00 USD tương đương 24.647.918.400 đồng ( theo tỷ giá ngày ký hợp đồng là 12.292 VNĐ/USD) trong đó có đơn giá thi công phần sơn ( theo điều chỉnh tại phụ lục số 4 ký ngày 04-7-1998,BL.30-31) là:

    + Phần sơn đường ống nước Tuabin bề mặt trong và kết cấu ngập trong nước ( lưới     chắn rác, cửa van…) là 153.000đ/m    ;

    + Phần sơn thiết bị không ngập nước, đường ống và kết cấu kim loại trong môi trường     công nghiệp bình thường 125.000đ/m ;

     + Phần sơn trang trí là 40.000đ/m ;

    Đối với các thiết bị lắp đặt sẵn: khe van, tấm đệm, cửa van…đơn giá được tính theo đơn giá thi công ngoài hiện trường đã nêu trong hồ sơ mời thầu ( Điều 5).

    - Để đạt được chất lượng cao và đáp ứng được tiến độ chung của toàn công trường Yaly, bên B sẽ xây dựng tại công trường một xưởng phun hạt sắt và sơ di động nằm ngay kề     cạnh khu liên hợp lắp giáp với diện tích 5000 m  .Bên B  trang bị mọi thiết bị thi công như máy nén khí, súng phun sơn, thang dây, giàn giáo, cẩu,… để làm việc hoàn toàn độc lập với các nhà thầu khác. Theo ước tính, tiến độ thi công sẽ được hoàn tất sau hai (2) năm, kể từ ngày khởi công (phụ lục số 2 kèm theo hợp đồng số 785 - BL.24).

    - Công việc thực hiện tại xưởng sơn ( thổi rỉ và sơn): tất cả bề mặt kết cấu kiện sắt thép sẽ được làm sạch … Ngay sau khi được làm sạch về mặt, các thiết bị sẽ được chuyển qua xưởng sơn đặt ngay bên cạnh (BL.25).

    - Việc làm sạch bề mặt và sơn tại xưởng các ống sẽ được dừng 10cm cách vị trí đầu ống cho việc lắp đặt và hàn nối tiếp tại hiện trường. Các mối hàn tại hiện trường giữa các ống sẽ được xử lý tại hiện trường với thiết bị mài ( máy mài ). Sau công đoạn mài sẽ được xử lý bằng phương pháp làm sạch bề mặt trước khi sơn ( phụ lục số 2 kèm theo hợp đồng số 785 - BL.25-26).

    - Đối với các khe van và cửa van cung thì việc làm sạch bề mặt và sơn được tiến hành tại hiện trường xây lắp ( phụ lục số 2 kèm theo hợp đồng số 785- BL.25).

    - Hợp đồng có hiệu lực sau khi đại diện hợp pháp của hai bên ký, được cấp có thẩm quyền của bên A phê duyệt và khi bên A nhận được giấy bảo lãnh thực hiện hợp đồng của bên B, với 10% giá trị hợp đồng do Ngân hàng BNP số 02 Thi Sách thành phố Hồ Chí Minh cấp riêng cho hợp đồng này trong thời hạn 01 năm sau đó bảo lãnh tiếp nối cho đến khi kết thúc hợp đồng này ( Điều 13 -  BL.21) và được điều chỉnh tại điều 1.3 phụ lục số 3 ký ngày 19.12.1997 - BL.28).

    b. Về việc thực hiện hợp đồng

    Ngày 02-01-1998, bằng Quyết định số 01 ĐVN/QLXD Tổng công ty Điện lực Việt Nam đã phê duyệt hợp đồng cung cấp vật liệu sơn và thi công sơn công trình thủy điện Yaly (BL.33-34)

    Ngày 06-01-1998, Ngân hàng BNP Việt Nam (chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh) đã ký và gửi cho Ban quản lý dự án nhà mày thủy điện Yaly giấy bảo lãnh thực hiện hợp đồng số 6000237 với số tiền là 200.520 USD (10% giá trị hợp đồng ) để bảo lãnh cho Pre theo quy định của hợp đồng kinh tế số 785 ĐVN/TĐIL - 2. Bão lãnh này có hiệu lực đến hết ngày 06.01.1999 (BL.44).

    Ngày 13-01-1998, hai bên ký biên bản giao nhận đất để Pre xây dựng xưởng sơn (BL.36).

    Ngày 15-7-1998, Pre mới đưa được xưởng sơn vào hoạt động (BL.756), do đó hàng loạt thiết bị máy móc theo hợp đồng phải được sơn tại xưởng, nhưng do chưa có xưởng nên phải đưa ra lắp đặt tại hiện trường trước ngày 15-7-1998 để đảm bảo tiến độ chống lũ năm 1998.

    Từ ngày 06-01-1998 ( ngày hợp đồng bắt đầu có hiệu lực theo thỏa thuận) đến hết     ngày 05-5-1999( 16 tháng), bên B đã thi công được 27.221.96m , trong đó diện tích sơn tại         xưởng là 23.001,38m , diện tích sơn tại hiện trường là 4.220,58m  (Biên bản đối chất ngày 09-01-2004 - BL.4121-4120).

    Ngày 05-5-1999, bằng Công văn số 0101/99/PVN/CT Pre thông báo chấm dứt hoạt động tại xưởng sơn cùng mọi hoạt động khác tại công trường Yaly kể từ ngày 06-5-1999 và bắt đầu tháo dỡ xưởng, thu dọn tất cả vật tư, thiết bị kể từ ngày 17-5-1999 (BL.72)

    c. Nguyên đơn yêu cầu Tòa giải quyết buộc Pre:

    -Hoàn trả 257.515 USD ( tương đương với 3.165.374.308 đồng, theo tỷ giá 12.292VNĐ/USD tại thời điểm ký kết hợp đồng) tiền tạm ứng mà Pre còn đang giữ (BL.06);

    - Bồi thường thiệt  hại do vi phạm hợp đồng (chênh lệch đơn giá thi công do phải thuê người khác cao hơn đơn giá trong hợp đồng 785) là 7.347.071.951 đồng (BL.07);

    - Chịu phạt phi phạm hợp đồng là 1.135788.950 đồng (BL.07);

    Đối trừ số tiền EVN còn chưa thanh toán cho Pre là 1.322.97.000 đồng thì Pre còn phải thanh toán là 10.758.067.481 đồng.

    2. Theo đơn phản tố và trình bày của bị đơn trong quá trình tố tụng thì:

    a. Về ký kết hợp đồng

    - Thống nhất như trình bày của nguyên đơn.

    - Hồ sơ dự thầu không phân biệt đơn giá thi công tại xưởng và đơn giá thi công tại hiện trường như quy định tại Điều 5 của hợp đồng (BBPTPT-BL.7113).

    b.Về việc thực hiện hợp đồng

    - Pre đã xây dựng tại công trường một xưởng phun hạt sắt và sơn di động với trang     thiết bị hiện đại trị giá xấp xỉ 600.000 USD để đáp ứng yêu cầu thi công 159.000 m  và đã đưa vào sử dụng từ ngày 15.7.1998(BL.756);

    - Thống nhất về số liệu trình bày của nguyên đơn, trong thời gian từ tháng 01.1998 đến     tháng 6.1998, Pre đã sơn được 27.221.96 m  , trong đó khối lượng công việc tại xưởng là         23.001,58m  ; khối lượng công việc thực hiện tại công trường là 4.220,58m  (BL.757);

       - Đã có thay đổi về điều kiện thi công so với hợp đồng đã ký, có nhiều phần công việc đáng lẽ được sơn trong xưởng nhưng lại phải tiến hành sơn ngoài hiện trường. Hai bên đã thống nhất được với nhau về đơn giá cho phần công việc phát sinh ngoài hiện trường này, cho dù phía Pre đã cố gắng giảm giá trong các đề xuất ( Pre bắt đầu đề xuất đơn giá mới từ tháng 6.1998 - BL.759);

    - Khối lượng công việc thực tế được giao quá ít không đảm bảo tiến độ thực hiện hợp đồng, không đủ để thực hiện việc khấu hao giá trị tài sản đã đầu tư, làm tăng chi phí cho hoạt động của Pre (BL.758);

    - EVN không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng, gây nhiều khó khăn và thiệt hại kinh tế cho Pre (BL.759-760).

    c. Pre yêu cầu tòa giải quyết buộc EVN:

    - Phải thanh toán số tiền 130.303,76 USD (tương đương với 1.601.693.811 đồng, theo tỷ giá 12.292 VNĐ/USD tại thời điểm ký hợp đồng) cho phần việc Pre đã thực hiện hết tháng 7.1999);

    - Phải trả cho Pre tiền lãi do chậm thanh toán đối với số tiền trên và khoản tiền vật liệu chậm thanh toán là 1.315.274.000 đồng;

    - Đền bù cho Pre các tổn thất tài chính do lỗi của EVN gây ra là 1.108.399,08 USD ( tương đương với 13.624.441.491 đồng, theo tỷ giá 12.292 VNĐ/USD tại thời điểm ký kết hợp đồng).

    3. Quá trình giải quyết vụ án:

    Tại bản án kinh tế sơ thẩm số 01/KTST ngày 14.12.2000 (Bl.1318-1322) Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai quyết định:

    - Buộc Tổng công ty Điện lực Việt Nam thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền cho Công ty TNHH Prezioco Việt Nam khối lượng công việc đã hoàn thành chưa được thanh toán là 1.370.719.922,8 đồng và trả khoản tiền lãi do chậm thanh toán theo hợp đồng 41.856.065 đồng. Tổng cộng hai khoản là 1.412.575.987,8 đồng.

    - Bác yêu cầu của Tổng công ty Điện lực Việt Nam đòi Công ty TNHH Prezioso Việt Nam bồi thường thiệt hại do tiến độ thi công chậm là 1.339.101.434 đồng.

                - Buộc Công ty Preziso Việt Nam phải hoàn lại tiền tạm ứng cho Tổng công ty Điện lực Việt Nam là 2.895.540.098 đồng ,bồi thường thiệt hại do không tiếp tục thực hiện hợp đồng4.091.668.000 đồng và chịu khoản tiền phạt vi phạm hợp đồng là 135.010.350 đồng .Tổng cộng ba khoản là 7.125.218.448 đồng.

    - Tổng công ty Điện lực Việt Nam được quyền khởi kiện Công ty TNHH Prezioso Việt Nam yêu cầu bồi thường thiệt hại tiếp đối với khối lượng thi công thực tế còn lại theo đúng quy định của pháp luật.

    - Bác yêu cầu của Công ty TNHH Prezioso Việt Nam đòi Tổng công ty Điện lực Việt Nam bồi thường thiệt hại do phải ngừng thi công ,bị tổn thất về tài chính là 20.049.808.224 đồng.

    - Tổng công ty Điện lực Việt Nam có nghĩa vụ chuyển khoản tiền thuế giá trị tăng là 63.105.206 đồng cho Công ty TNHH Prezioso Việt Nam để thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước theo quy định .

    - Tiếp tục kê biên tài sản của Công ty TNHH Prezioso Việt Nam hiện có trên công trường thủy điện Yaly để đảm bảo cho công tác thi hành án sau này.

    Ngày 22.12.2000, cả nguyên đơn và bị đơn đều có đơn kháng cáo yêu cầu được xử phúc thẩm lại toàn bộ vụ án;

    Tại bản án kinh tế phúc thẩm số 01/2002/KTPT ngày 14-4-2002 (BL.2477-2483), Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao Đà Nẵng quyết định:

    -Bác yêu cầu của Tổng công ty Điện lực Việt Nam đòi Công ty TNHH Prezioso Việt Nam phải bồi thường thiệt hại do chậm tiến độ thi công và một phần bồi thường thiệt hại do không tiếp tục thực hiện hợp đồng với tổng số tiền là 7.116.222.900 đồng.

    - Bác yêu cầu Tổng công ty Điện lực Việt Nam khoản tiền phạt do bên B chậm thi công và một phần khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng với tổng số tiền là 1.114.145.184 đồng.

    - Bác yêu cầu của Công ty TNHH Prezioso Việt Nam đòi Tổng công ty Điện lực Việt Nam khoản bồi thường là 20.049.808.224 đồng.

    - Buộc Tổng công ty Điện lực Việt Nam phải thanh toán tiền cho Công ty TNHH Prezioso Việt Nam khối lượng công việc đã hoàn thành nhưng chưa được thanh toán là 1.370.719.922.8 đồng và khoản tiền lãi do chậm thanh toán là 41.856.065 đồng. Tổng hai khoản là 1.412.575.987,8 đồng

    - Buộc Công ty TNHH Prezioso Việt Nam phải hoàn lại tiền tạm ứng cho Tổng công ty Điện lực Việt Nam là 2.898.540.098 đồng; bồi thường thiệt hại do ngừng thi công gây ra là 3.891.668.000 đồng; phạt do vi phạm hợp đồng là 225.017.250 đồng. Tổng ba khoản là 7.015.225.348 đồng

    - Tổng công ty Điện lực Việt Nam có nghĩa vụ chuyển khoản tiền thuế giá trị gia tăng là 63.105.260 đồng cho Công ty TNHH Prezioso Việt Nam để Công ty thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước.

    - Tổng công ty Điện lực Việt Nam có quyền khởi kiện Công ty TNHH Prezioso Việt Nam đòi bồi thường tiếp đối với khối lượng mới thi công thực thế còn lại.

    Ngày 20.6.2002, Công ty TNHH Prezioso Việt Nam có đơn số 87/02/PVN/ADM (BL.2507-2510) khiếu nại bản án kinh tế phúc thẩm số 01/2002/KTPT ngày 13.4.2002 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng.

    Tại quyết định kháng nghị số13/KN-AKT ngày 28-10-2002 (BL.4045-4039), Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận định bản hợp đồng số 785/ĐVN/TĐIL-2 ngày 19-12-1997 bị vô hiệu toàn bộ; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân xét xử giám đốc thẩm, hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm để giao về xét xử sơ thẩm lại theo hướng xử lý hợp đồng vô hiệu toàn bộ đối với hợp đông kinh tế số 785/ĐVN/TĐIL-2 ngày 19-12-1997 theo quy định tại Điều 39 Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế.

    Tại quyết định giám đốc thẩm số05/2003/HĐTP-KT ngày 24-02-2003 (BL.4054-4046), Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quyết định hủy bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm để xét xử sơ thẩm lại với lý do:

    Không có căn cứ để tuyên bố hợp đồng 785/ĐVN/TĐIL-2 ngày 19-12-1997 vô hiệu toàn bộ như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

    ……………

    - Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm chưa xác minh làm rõ đến ngày 06-5-1999, khối lượng công việc theo hợp đồng phải được sơn trong xưởng nhưng lại đem ra lắp ráp trước yêu cầu Pre  tới thi công ngoài hiện trường là bao nhiêu? Trong đó lỗi của bên B là bao nhiêu? Do lỗi của bên A là bao nhiêu? Để xác định chính xác trách nhiệm của mỗi bên.

    Ngày 08-4-2003 ,EVN có đơn khởi kiện bổ sung (BL.4046-4062) và ngày 22-9-2203, Pre có đơn phản tố (BL.5011-5007). Trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, hai bên thỏa thuận được việc thanh toán cho nhau tiền tạm ứng thừa và tiền sơn đối với khối lượng chưa thanh toán giữa hai bên.

    Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 16-6-2004 (BL.5996-5942), nguyên đơn EVN chỉ còn giữ các yêu cầu buộc Pre phải chịu phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại là 11.37.232.993 VND (BL.5993) và Pre chỉ còn giữ một yêu cầu duy nhất là buộc EVN phải bồi thường toàn bộ giá trị của khối lượng công việc đã mang ra lắp đặt ngoài hiện trường tính đến thời điểm 19-5-1999 là 7.754.345.400 VND; đối với yêu cầu bồi thường về thiệt hại do bị kê biên xưởng  sơn và chi phí phục hồi lại máy móc thiết bị tổng cộng là 7.170.022.947 VND đề nghị được bảo lưu để Pre khởi kiện trong một vụ kiện khác.(BL.5973-5972).

    Tại bản án kinh tế sơ thẩm số02/KT-ST ngày 18.6.2004 (BL.0643-6030)

    -Bác đơn khởi kiện công ty Điện lực Việt Nam và đơn phản tố của Công ty TNHH Prezioso Việt Nam;

                - Buộc Tổng công ty Điện lực Việt Nam phải chịu 39.872.386 VND và Công ty TNHH Prezioso Việt Nam phải chịu 36.448.414 VND án phí kinh tế sơ thẩm;

                Ngày 21.6.2004, Pre kháng cáo một phần bản án sơ thẩm (BL.6026.6025), yêu cầu xử buộcEVN phải bồi thường thiệt hại cho Pre số tiền là 7.754.315.400 VND theo yêu cầu phản tố;

                Tại quyết định số 01/KNKT ngày 24-6-2004 (BL.6028-6027), Viện trưởng Viện kiếm sát nhân dân tỉnh Gia Lai kháng nghị bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng sửa một phần bản án sơ thẩm, chấp nhận một phần yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại cao

     Công ty TNHH Prezioso Việt Nam;

                Ngày 25-6-2004, EVN kháng cáo bản án sơ thẩm (BL.6022-6021) và có bản giải trình cụ thể số 1164 ngày 22-9-2004 (BL.7004-7008) cho rằng bản án sơ thẩm chưa xem xét chứng cứ do EVN đưa ra, nên quyền và lợi ích hợp pháp của EVN không được đảm bảo.Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại phần bác các yêu cầu của EVN của bản án sơ thẩm.

                Tại bản án kinh tế phúc thẩm số 06 ngày 05-5-2005 (BL.7129-7136), Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng giữ nguyên nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm về lỗi vi phạm hợp đồng của EVN trong việc đưa 50.681,8 m2 ra lắp ngoài hiện trường là nguyên nhân dẫn đến Pre đơn phương hủy bỏ hợp đồng sau khi không thỏa thuận được đơn giá thi công ngoài hiện trường.

                Căn cứ vào lời khai tại phiên tòa của bị đơn Pre về tỷ lệ tiền lãi trên đơn giá theo hợp đồng (BL.7104), Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai và yêu cầu tại phiên Tòa phúc thẩm của Pre, sửa một phần bản án sơ thẩm; buộc EVN phải bồi thường cho Pre số lợi nhuận lẽ ra được hưởng bằng 10% giá ghi trên hợp đồng trên tổng số diện tích sơn đã được lắp đặt trước ngoài hiện trường là 50.681,8 x 10%=775.431.540 đồng

                Tính lại tiền án phí kinh tế sơ thẩm.

                Sau khi có bản án phúc thẩm, EVN có đơn khiếu nại giám đốc thẩm số2861/CV- EVN-TTBV & PC ngày 07-6-2005; số5401/CV- EVN-TTBV & PC ngày 18-10-2005; số1599/CV- EVN-TTBV & PC;ngày 03-3-2006; số3837/CV- EVN-TTBV & PC ngày 16-10-2006; số3837/CV-EVN-PC ngày 24-7-2007; số1505/CV-EVN ngày 03-4-2008 gửi Viện trưởng Viện kiếm sát nhân dân tối cao và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

    Tại quyết định số06/2008/TATC- KT ngày 02-5-2008, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án kinh tế phúc thẩm số 06 ngày 05-5-2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy cả hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại bản án kết luận số 13/ KL-VKSTC-V12 ngày 07-7-2008 và tại phiên tòa giám đốc thẩm ,đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không chấp nhận kháng nghị số06/2008/TATC-KT ngày 02-5-2008 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; giữa nguyên bản án kinh tế phúc thẩm số 06 ngày 05-5-2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng.

                                                                XÉT THẤY:

    Tại quyết định giám đốc thẩm số05/2003/HĐTP-KT ngày 24-02-2003, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã nhận định: “Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm chưa điều tra ,xác định rõ: Đến ngày 06-5-1999, khối lượng công việc theo hợp đồng phải được sơn trong  xưởng nhưng lại đem ra lắp ráp trước rồi yêu cầu Prezioso tới thi công ngoài hiện trường là bao nhiêu? Trong đó do lỗi bên B là bao nhiêu? Do lỗi của bên A là bao nhiêu? Để xác định chính xác trách nhiệm của mỗi bên”. Từ đó đã quyết định hủy bản án kinh tế sơ thẩm số 01/ KTST ngày 14-12-2000 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai và bản án kinh tế phúc thẩm số 01/2002/KTPT ngày 14-4-2002 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng để xét xử sơ thẩm lại.

    -Khi xét xử lại, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm vẫn chưa thực hiện đúng yêu cầu của quyết định giám đốc thẩm về các vấn đề:

    -Ngoài việc xác định khối lượng công việc sơn đã được lắp đặt trước tại hiện trường (chưa sơn ) là 50.681,8m2 tính đến ngày 18-5-1999 (theo “bảng kê khối lượng thiết bị của thủy điện Yaly ký ngày 19-5-1999” (BL.5334-5336) và bảng sơn tổng hợp thiết bị Yaly (BL.5333) của EVN), thì

    chưa xác định được trong đó có bao nhiêu diện tích theo hợp đồng phải được sơn trong xưởng nhưng lại đem ra lắp đặt ngoài hiện trường? có bao nhiêu diện tích theo hợp đồng phải được sơn ngoài hiện trường?

    - Chưa làm rõ được trong diện tích đáng lẽ phải được sơn trong xưởng nhưng lại mang ra lắp đặt ngoài hiện trường trước khi sơn thì bao nhiêu là do lỗi của nguyên đơn? Bao nhiêu là do lỗi của bị đơn? Để qua đó giải quyết từng yêu cầu của các đương sự:

    1.       Những sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm:

    Ngày 10.10.2003, EVN có Công văn số1095/EVN-TDD4-P2 (BL.4108-4100) giải trình yêu cầu phản tố của Pre, đã chứng minh khối lượng và nguyên nhân đưa công việc sơn từ xưởng ra ngoài hiện trường, cụ thể là:

    -Do xưởng sơn đưa vào hoạt động muộn (hợp đồng có hiệu lực từ tháng 01/1998 nhưng cho đến ngày 15-7-1998 Pre mới đưa được xưởng sơn vào hoạt động) nên để kịp tiến độ của công trường EVN đã phải đưa ra lắp đặt ngoài hiện trường số thiết bị có diện tích sơn là 23.345m2 (BL.4105-4104,4102);

    - Sau khi có xưởng sơn thì Pre không kịp sơn, do tiến độ của công trường buộc phải đem ra hiện trường lắp (có bảng thống kê kèm theo –BL.4104);

    - Do không đủ nhân lực nên Pre chỉ tập trung thi công trong xưởng, không có người để thi công tại hiện trường đối với những công việc theo hợp đồng phải sơn ngoài hiện trường (BL.4103);

    - Để đảm bảo tiến độ và chất lượng công trình do Pre không thực hiện việc sơn ngoài hiện trường đối với những hạng mục phải sơn ngoài hiện trường theo Điều 5.3 của hợp đồng 785 (khe van, tấm đệm, cửa van), ,mà những thiết bị này sẽ bị vĩnh viễn ngập dưới nước (BL.4102-4101), EVN đã có nhiều văn bản đôn đốc Pre thi công từ đầu năm 1998 (BL.5085-5088), nhưng vì Pre không chịu sơn, buộc lòng EVN phải thuê lắp máy 10 thi công mới đảm bảo yêu cầu tiến độ (BL.4114.s); Thực tế, EC10 đã sơn 2.228,8 m2.

    Tại buổi làm việc ngày 20-10-2003 (Biên bản lấy lời khai - BL.4117-4112) và lời trình bày tại phiên tòa sơ thẩm ngày 16.6.2004 (BBPTST-BL.5984-5983), đại diện hợp pháp của EVN cũng đã chứng minh khối lượng và nguyên nhân đưa công việc sơn từ xưởng ra ngoài hiện trường như sau:

    -Vì tiến độ công trình, trước khi ký kết hợp đồng số 785 đã có 2.480m2 được lắp đặt trước (BL.4116), trong đó có 20 đoạn ống tuốc bin (ống TB) với tổng diện tích la 1.686 m2 và các khe van cửa nhận nước có diện tích 794m2.Pre biết rõ số lượng này khi tham gia ký biên bản thỏa thuận ngày 18-02-1998 (BL.4110-4109);

                - Từ khi ký hợp đồng 785 cho đến ngày đưa được xưởng sơn và  hoạt động 19-12-1997 đến 15-7-1998 –giai đoạn chưa có xưởng sơn), có 23.435mphải mang ra lắp đặt tại hiện trường cho kịp tiến độ (BL.4116.s).

    -Sau khi xưởng sơn đã đưa vào hoạt động cho đến ngày chấm dứt hợp đồng (từ ngayf-7-1998 đến ngày 06-5-1999), có 2.645m2 đáng lẽ phải sơn trong xưởng nhưng do Pre không đủ năng lực, sơn trong xưởng nhưng do Pre không đủ năng lực, sơn không kịp nên phải lấy về để lắp cho kịp tiến độ (BL.4116.s).

                Từ những nguyên nhân trên, đã có 28.470m2 buộc phải lắp đặt ngoài hiện trường khi chưa sơn mà không phải do lỗi của EVN.

                -Không có diện tích sơn nào thuộc loại phải sơn trong xưởng mà EVN chủ động đưa ra lắp đặt trước ngoài hiện trường rồi mới yêu cầu Pre đến thi công sơn (BL.4115).

                - Theo EVN, bản chất của vụ án là do Pre không đủ năng lực thực hiện hợp đồng, không có thiết bị thi công cần thiết, nhân lực thiếu. Để đối phó, Pre đưa ra yêu cầu tăng giá cao so với giá bỏ thầu, tạo cớ để đơn phương chấm dứt hợp đồng (BL.4116.s; BBPTST-BL.5988). Với ý đồ không tiếp tục thực hiện hợp đồng, sau đó bảo lãnh nối tiếp nữa như quy định tại Điều 13 của Hợp đồng số 785 (BL.21) Điều 1.3 phụ lục số 03 ngày 14-01-1998 (BL.28).

                Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện của Pre không bác bỏ số liệu của EVN và cũng không đưa ra được số lượng diện tích phải sơn ngoài hiện trường theo quy định của hợp đồng số 785 là bao nhiêu (BL.5965-5962).

                Theo đại diện của Pre, lý do chính để Pre dừng thực hiện hợp đồng số 785 là do các điều kiện thi công thay đổi, trong khi đang thương thảo về giá thì EVN giao việc cho EC10 (BL. 5966). Do EVN giao việc cho EC10 nên Pre không còn việc để thi công sơn ở ngoài hiện trường (BL. 5965).

                Tòa án cấp sơ thẩm không kiểm tra, đánh giá những số liệu ,chứng cứ và lý do nêu trên của các đương sự mà chỉ căn cứ vao “Bảng kê khối lượng sơn thiết bị của thủy điện Yaly ký ngày 19-5-1999” (BL.5334-5336) và bảng tổng hợp sơn ngoài hiện trường trước khi sơn là lỗi hoàn toàn thuộc về EVN (BL. 6033). Mặc dù kết luận lỗi hoàn toàn thuộc về EVN, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại bác toàn bộ các yêu cầu của nguyên đơn và bị đơn là mâu thuẫn giữa quyết định và nhận định.

                b. Những sai lầm của Tòa án  cấp phúc thẩm:

    Ngày 22-9-2004, EVN có Công văn số1164/EVN-ATDD-P6 (BL.7004-7008) và bản phụ lục kèm theo chứng minh thư và giải trình bổ sung (BL .7005):

    - Tổng số diện tích phải sơn ngoài trời theo quy định tại hợp đồng số 785 là 19.568,38m2 (trên tổng diện tích phải sơn cả công trình đã được nghiệm thu là 94.470,71m2, chiếm tỷ lệ 21% - BL.7008);

                - Trước ngày hợp đồng số 785 có hiệu lực, đã có 2.480m2 được đưa ra hiện trường lắp đặt trước khi sơn (BL. 7008);

                - Trong thời gian từ ngày 06-01 đến ngày 15-7-1998,có 11.010m2  đáng lẽ được sơn trong xưởng nhưng phải đưa ra hiện trường lắp đặt trước khi sơn vì chưa có xưởng sơn (BL. 7008);

    - Sau khi đã có xưởng sơn (từ ngày 15-7-1998 đến ngày Pre chấm dứt thực hiện hợp đồng -06-5-1999), có 2.645,32m2(BL. 7008) đáng lẽ phải được sơn vì chưa có xưởng sơn, nhưng  đã phải đưa ra hiện trường lắp đặt trước khi sơn do Pre không sơn kịp tiến độ (BL. 7005);

    - Tại phiên Tòa phúc thẩm (BL.7106-7128),EVN đã đề nghị cần làm rõ lý do phải đưa ra ngoài hiện trường số lượng diện tích chưa sơn hơn 50.000m mang ra lắp đặt ngoài hiện trường trước khi sơn đều do lỗi của Pre (BL. 7109).

    - Theo “Bảng giải trình khối lượng chưa sơn tại hiện trường theo bảng kê ngày 19-5-1999” của EVN (BL. 6951-6953), 48.452,98m2 (cột F) đã lắp đặt ngoài hiện trường nhưng chưa sơn lại thời điểm ngày 19-5-1999 bao gồm:

    -Khối lượng phải sơn ngoài hiện trường theo quy định trong hợp đồng 785 là 6.965,51m2 (cột G);

    - Khối lượng phải ra ngoài hiện trường trước khi có xưởng sơn là 12.349,32m2 (cột H);

    - Khối lượng thiết bị siêu trọng, Pre không có năng lực kỹ thuật để vận chuyển vào xưởng sơn (lời khai lại BL.4114 l)là 13.286,95m2 (cột I );

    -Khối lượng phải đưa ra hiện trường do Pre không sơn kịp tiến độ (sau khi đã có xưởng sơn )là 3.972,20m2 (cột J );

    - Khối lượng phát sinh sau khi Pre đã chấm dứt hợp đồng là 119m2 (cột K);

    -Khối lượng thực tế không phải sơn (nhà sản xuất thiết bị đã sơn tốt rồi) là 11.760m2 (cột L);

    EVN khẳng định tất cả các khối lượng phải đưa ra ngoài hiện trường khi chưa sơn đều không do lỗi của EVN.

    Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét những nội dung và số liệu chi tiết do EVN cung cấp nêu trên để xác định lỗi của từng bên trong việc đưa 50.681,80m2 phải sơn ra ngoài hiện trường, mà chỉ căn cứ vào “Bảng kê khối lượng sơn thiết bị của thủy điện Yaly ký ngày 19-5-1999” (BL.5334-5336) và bảng tổng hợp sơn thiết bị Yaly (BL.5333) của EVN để quy kết toàn bộ diện tích 50.681,80mđưa ra ngoài hiện trường trước khi sơn là lỗi hoàn toàn thuộc về EVN và bác toàn bộ các yêu cầu của nguyên đơn ,chấp nhận một phần yêu cầu của bị đơn Pre là không xem xét và đánh giá toàn diện các chứng cứ của vụ án.

    Về việc cho Pre hưởng lãi 10% trên tổng giá trị công việc sơn đối với khối lượng thiết bị đã lắp đặt sẵn tại hiện trường là 50.681,80mx 153.000đ/m2 x 10% = 775.431.540 đồng:

    Không có căn cứ để xác định lãi 10% trên giá thỏa thuận trong hợp đồng. Cách tính của Tòa cấp phúc thẩm không đúng với quy định tại phụ lục I và phụ lục II của Thông tư số08/1997/TT-BXD ngày 05-12-1997 của Bộ Xây dựng ( cả thuế và lãi mới chiếm 9-12% của chi phí trực tiếp và chi phí ứng chung, chứ không phải trên tổng giá trị khối lượng công việc sơn. Tức là: Cộng cả phần thuế và lãi vào các chi phí trên ta mới có 100% tổng giá trị khối lượng công việc sơn).

    - Việc Tòa án cấp phúc thẩm tính lãi trên toàn bộ diện tích 50.681,80m lắp đặt ngoài hiện trường trước khi sơn là không có căn cứ, đó là toàn bộ diện tích chưa sơn đã được lắp đặt ngoài hiện trường với rất nhiều lý do khác nhau như đã nói ở trên, trong đó bao gồm cả diện tich Pre phải sơn ngoài hiện trường theo quy định trong hợp đồng số 785 và có thể bao gồm cả diện tích Pre có lỗi khi phải đưa công việc sơn trong xưởng ra ngoài hiện trường. Tòa án cấp phúc thẩm không kết luận được lỗi hoàn toàn thuộc về EVN.

                - Việc nhận tổng khối lượng chưa sơn đã lắp đặt trước ngoài hiện trường (50.681,80m2) với một loại đơn giá cao nhất (đơn giá thi công hệ sơn ngập nước-153.000đ/m2) để tính ra số tiền lãi Pre được hưởng là không có căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm đã không kết luận được toàn bộ khối lượng chưa sơn đã lắp đặt trước ngoài hiện trường (50.681,80m2) đều thuộc loại phải sơn bằng hệ sơn ngập nước chứ không có diện tích sơn bằng hệ sơn không ngập nước chỉ có đơn giá thi công là

    125. 000đ/m hoặc hệ sơn trang trí có đơn giá thi công là 40.000đ/m2.

                Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297; khoản 1 và khoản 2 Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự,

     QUYẾT ĐỊNH:

    1.Hủy bản án kinh tế sơ thẩm số02/KT-ST ngày 18-06-2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai và bản án kinh tế phúc thẩm số 06 ngày 05-5-2005 của Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng về vụ tranh chấp hợp đồng xây dựng giữa nguyên đơn Tổng công ty Điện lực Việt Nam và bị đơn  Công ty TNHH Prezioso Việt Nam (nay là Công ty Viva-Blast Việt Nam).

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm lại theo quy đúng quy định của pháp luật.

    Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:

                Tòa án các cấp đã có nhiều thiếu sót trong việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ vụ án,dẫn đến quyết định không đúng.

     

     
    3121 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận