Chỉ tiêu an toàn nợ công là hệ thống chỉ tiêu quy định mức trần và ngưỡng cảnh báo về nợ công do Quốc hội quyết định.
Mức trần nợ công là tỷ lệ phần trăm tối đa của chỉ tiêu an toàn nợ công quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định 94/2018/NĐ-CP;
Ngưỡng cảnh báo về nợ công là mức tỷ lệ giới hạn của chỉ tiêu an toàn nợ công sát dưới trần nợ công đòi hỏi có giải pháp để bảo đảm kiểm soát các chỉ tiêu này trong mức trần đã được Quốc hội quyết định.
1. Các chỉ tiêu an toàn nợ công
Theo Khoản 2 Điều 21 Luật Quản lý nợ công thì chỉ tiêu an toàn nợ công bao gồm:
- Nợ công so với tổng sản phẩm quốc nội;
- Nợ của Chính phủ so với tổng sản phẩm quốc nội;
- Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ (không bao gồm cho vay lại) so với tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) hằng năm;
- Nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng sản phẩm quốc nội;
- Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ.
2. Căn cứ xây dựng chỉ tiêu an toàn nợ công
Chỉ tiêu an toàn nợ công được xây dựng dựa trên những căn cứ sau:
- Định hướng về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm.
- Tình hình thực hiện các chỉ tiêu an toàn nợ công giai đoạn 05 năm trước.
- Tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ tiết kiệm nội bộ của nền kinh tế.
- Các cân đối về thu, chi, bội chi NSNN, cân đối giữa nhu cầu huy động vốn vay và khả năng trả nợ; cân đối ngoại tệ; nhu cầu và cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội và các cân đối kinh tế vĩ mô khác.
- Tình hình, khả năng huy động vốn trong nước, nước ngoài.
- Kinh nghiệm và thông lệ quốc tế trong xây dựng chỉ tiêu an toàn nợ công.
3. Xây dựng chỉ tiêu an toàn nợ công
- Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xác định mức trần và ngưỡng cảnh báo đối với chỉ tiêu an toàn nợ công, báo cáo Chính phủ để trình Quốc hội xem xét quyết định trong kế hoạch tài chính 05 năm quốc gia.
- Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với NHNN Việt Nam xây dựng các chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng sản phẩm quốc nội và nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ.
4. Giám sát thực hiện chỉ tiêu an toàn nợ công
- Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với NHNN Việt Nam và các cơ quan có liên quan tổng hợp, đánh giá tình hình thực hiện các chỉ tiêu an toàn nợ công báo cáo Chính phủ trong kế hoạch vay, trả nợ hằng năm để báo cáo Quốc hội, UBTVQH trong báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ tài chính NSNN hằng năm.
- Khi chỉ tiêu an toàn nợ công đạt đến ngưỡng cảnh báo về an toàn nợ công, Bộ Tài chính trình Chính phủ thực hiện hoặc báo cáo Quốc hội, UBTVQH các biện pháp để đảm bảo các chỉ tiêu an toàn nợ công không vượt trần nợ công được Quốc hội quyết định, bao gồm:
+ Giảm mức vay về cho vay lại đối với ODA và vốn vay ưu đãi của Chính phủ;
+ Giảm hạn mức bảo lãnh Chính phủ;
+ Giảm mức vay của chính quyền địa phương;
+ Giảm bội chi NSNN để giảm mức vay nợ của Chính phủ.
Trường hợp sau khi áp dụng các biện pháp tại kể trên mà chỉ tiêu an toàn nợ công vượt giới hạn trần đã được Quốc hội quyết định, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan báo cáo Chính phủ để trình Quốc hội quyết định các biện pháp và lộ trình điều chỉnh kế hoạch vay, trả nợ công 05 năm hoặc điều chỉnh mức trần chỉ tiêu an toàn nợ công theo quy định của Luật Quản lý nợ công.