Theo khoản 3 Điều 1 Luật Luật sư 2012, thì những việc luật sư không được làm được quy định như sau:
a) Cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng có quyền lợi đối lập nhau trong cùng vụ án hình sự, vụ án dân sự, vụ án hành chính, việc dân sự, các việc khác theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là vụ, việc);
b) Cố ý cung cấp hoặc hướng dẫn khách hàng cung cấp tài liệu, vật chứng giả, sai sự thật; xúi giục người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,đương sự khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện trái pháp luật;
c) Tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác;
d) Sách nhiễu, lừa dối khách hàng;
đ) Nhận, đòi hỏi thêm bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ khách hàng ngoài khoản thù lao và chi phí đã thỏa thuận với khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý;
e) Móc nối, quan hệ với người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cán bộ, công chức, viên chức khác để làm trái quy định của pháp luật trong việc giải quyết vụ, việc;
g) Lợi dụng việc hành nghề luật sư, danh nghĩa luật sư để gây ảnh hưởng xấu đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
h) Nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích khác khi thực hiện trợ giúp pháp lý cho các khách hàng thuộc đối tượng được hưởng trợgiúp pháp lý theo quy định của pháp luật; từ chối vụ, việc đã đảm nhận theo yêu cầu của tổ chức trợ giúp pháp lý, của các cơ quan tiến hành tố tụng, trừ trường hợp bất khả kháng hoặc theo quy định của pháp luật;
i) Có lời lẽ, hành vi xúc phạm cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình tham gia tố tụng;
k) Tự mình hoặc giúp khách hàng thực hiện những hành vi trái pháp luật nhằm trì hoãn, kéo dài thời gian hoặc gây khó khăn, cản trở hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan nhà nước khác;
Về cơ bản thì các hành vi bị nghiêm cấm đối với luật sư quy định tại Điều 9 của Luật Luật sư có thể phân thành ba nhóm chính:
- Nhóm thứ nhất liên quan đến những nghĩa vụ cơ bản của luật sư trong hành nghề, cụ thể là mâu thuẫn quyền lợi (điểm a khoản 1 Điều 9), bí mật thông tin (điểm c khoản 1 Điều 9), trung thực, bảo vệ tốt nhất lợi ích của khách hàng (điểm d và đ khoản 1 Điều 9).
- Nhóm thứ hai liên quan đến hoạt động của cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng. Những quy định cấm này (điểm b và điểm c khoản 1 Điều 9) nhằm bảo đảm các hoạt động của cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện theo đúng pháp luật, góp phần phòng ngừa những hiện tượng tiêu cực trong thi hành công vụ.
- Nhóm thứ ba liên quan đến việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân (điểm g khoản 1 Điều 9).
Ngoài ra tại khoản 3 Điều 24 Luật Luật sư còn quy định: “Luật sư không chuyển giao vụ, việc mà mình đã nhận cho luật sư khác làm thay, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc trường hợp bất khả kháng.”
Như vậy, so với Pháp lệnh luật sư năm 2001 và Quy tắc mẫu về đạo đức hành nghề luật sư trước đây, Luật luật sư có những điểm mới như: cấm hành vi cố ý cung cấp tài liệu, chứng cứ giả sai sự thật, xúi giục người bị tạm giam giữ, bị can, bị cáo, đương sự khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo khiếu kiện trái pháp luật; sách nhiễu, lừa dối khách hàng; ngoài ra về việc cung cấp thông tin đã quy định cụ thể hơn ở trường hợp nếu khách hàng đồng ý phải có văn bản. Hành vi gây ảnh hưởng xấu đến quốc gia của luật sư cũng được quy định rõ hơn: không được phát biểu trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc nơi công cộng và không được lợi dụng việc hành nghề luật sư, danh nghĩa luật sư gây ảnh hưởng xấu đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Như vậy, đã có sự kế thừa, phát triển Pháp lệnh luật sư năm 2001 và Quy tắc mẫu về đạo đức luật sư trong việc xây dựng, ban hành Luật luật sư năm 2006.
Bên cạnh việc pháp luật quy định các hành vi bị nghiêm cấm đối với luật sư trong Luật Luật sư, Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Hội đồng Luật sư Toàn quốc đã ban hành “Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam” trong đó có các quy tắc 14, 20, 24 quy định về những việc luật sư không được làm trong quan hệ với khách hàng, đồng nghiệp, cơ quan tiến hành tố tụng.
Có thể thấy tất cả những quy định trên rất cần thiết, góp phần giúp luật sư nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp, trách nhiệm pháp lý khi hành nghề, giúp luật sư với sứ mệnh và chức năng xã hội của mình bảo vệ được cán cân công lý, giúp đỡ những người yếu thế, đảm bảo để tất cả mọi người luôn được hưởng sự công bằng.