Những trường hợp nào chỉ truy cứu TNHS khi bị hại yêu cầu?

Chủ đề   RSS   
  • #611951 24/05/2024

    btrannguyen
    Top 75
    Lớp 12

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:13/03/2024
    Tổng số bài viết (1181)
    Số điểm: 23218
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 494 lần


    Những trường hợp nào chỉ truy cứu TNHS khi bị hại yêu cầu?

    Tội phạm sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự cho hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên cũng có trường hợp người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có yêu cầu của bị hại.

    Căn cứ nào để không khởi tố vụ án hình sự?

    Theo Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 sửa đổi 2021 quy định không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong các căn cứ sau:

    - Không có sự việc phạm tội;

    - Hành vi không cấu thành tội phạm;

    - Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;

    - Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;

    - Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;

    - Tội phạm đã được đại xá;

    - Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;

    - Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.

    Như vậy, nếu thuộc một trong các căn cứ trên thì sẽ không được khởi tố vụ án hình sự. Theo đó, vẫn có các trường hợp mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố thì sẽ không khởi tố vụ án.

    Những trường hợp nào chỉ truy cứu TNHS khi bị hại yêu cầu?

    Theo Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 sửa đổi 2021 quy định: 

    Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 Bộ luật Hình sự 2015 khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

    Đồng thời, truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) là việc buộc người có hành vi được quy định trong Bộ luật Hình sự phải chịu TNHS về hành vi phạm tội mà họ gây ra. Người đang bị truy cứu TNHS là người đang trong thời gian bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp tố tụng hình sự như khởi tố, điều tra; truy tố và xét xử. 

    Theo đó, các trường hợp chỉ truy cứu TNHS khi bị hại yêu cầu bao gồm:

    - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015.

    - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Điều 135 Bộ luật Hình sự 2015.

    - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội theo Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015.

    - Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 138 Bộ luật Hình sự 2015.

    - Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính theo Điều 139 Bộ luật Hình sự 2015.

    - Tội hiếp dâm theo Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015.

    - Tội cưỡng dâm theo Điều 143 Bộ luật Hình sự 2015.

    - Tội làm nhục người khác theo Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015.

    - Tội vu khống theo Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015.

    Cơ quan nào có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự?

    Theo Điều 153 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự như sau:

    - Cơ quan điều tra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tất cả vụ việc có dấu hiệu tội phạm, trừ những vụ việc do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử đang thụ lý, giải quyết quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 153 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

    - Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp quy định tại Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 .

    - Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp:

    + Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

    + Viện kiểm sát trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;

    + Viện kiểm sát trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử.

    - Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm.

    Như vậy, tùy theo vụ việc mà các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự có thể là cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử đang thụ lý, giải quyết. 

     
    578 | Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn btrannguyen vì bài viết hữu ích
    admin (30/07/2024)

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận