Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng

Chủ đề   RSS   
  • #459742 03/07/2017

    nguyenanh1292
    Top 25
    Female
    Dân Luật bậc 1

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:23/04/2014
    Tổng số bài viết (3079)
    Số điểm: 68071
    Cảm ơn: 576
    Được cảm ơn 4260 lần


    Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng

    Để khắc phục các khó khăn, vướng mắc, bất cập về pháp lý đã nảy sinh trong quá trình xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Công ty quản lý nợ của các tổ chức tín dụng Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật, soạn thảo trình Chính phủ, Quốc hội xem xét thông qua Nghị quyết về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.

    Ngày 21 tháng 6 năm 2017, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Nghị quyết 42/2017/QH14 sẽ có hiệu lực trong 05 năm từ ngày 15/8/2017.

    Nghị quyết này đã cho phép áp dụng nhiều chính sách mới (so với pháp luật hiện hành) về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, góp phần tạo lập cơ sở pháp lý thuận lợi hơn cho việc xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán nợ xấu.

    Cụ thể một số nội dung chính của Nghị quyết 42/2017/QH14 như sau:

    1. Về phạm vi điều chỉnh

    Thí điểm xử lý nợ xấu tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của:

    - Tổ chức tín dụng

    - Chi nhánh ngân hàng nước ngoài

    - Tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng (VAMC).

    - Ngân hàng chính sách.

    Đồng thời, để xác định rõ phạm vi điều chỉnh, Nghị quyết 42/2017/QH14 đã quy định cụ thể tiêu chí, phạm vi, cách thức xác định một khoản nợ là nợ xấu được áp dụng các chính sách quy định tại Nghị quyết, cụ thể:

    1.1. Về xác định nợ xấu

    Đó là các khoản:

    (i) Khoản nợ đang hạch toán trong, ngoài bảng cân đối kế toán của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và được xác định là nợ xấu theo quy định tại Phụ lục về xác định nợ xấu ban hành kèm theo Nghị quyết, khoản nợ xấu mà VAMC đã mua của TCTD;

    (ii) Khoản nợ xấu phát sinh từ 09 hoạt động sau: Cho vay, Cho thuê tài chính, Chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, Bao thanh toán, Cấp tín dụng dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng, Trả thay theo cam kết ngoại bảng, Ủy thác cấp tín dụng, Hoạt động mua bán nợ, Hoạt đông mua, ủy thác mua trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán hoặc chưa đăng ký giao dịch trên thị trường giao dịch các công ty đại chúng chưa niêm yết;

     (iii) Được xác định là nợ nhóm 3, 4, 5 theo phương pháp định lượng hoặc phương pháp định tính.

    Đồng thời, Nghị quyết 42/2017/QH14 cũng quy định giao quyền cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, sửa đổi Phụ lục về xác định nợ xấu theo đề nghị của Chính phủ khi cần thiết và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

    1.2. Về phạm vi nợ xấu được xử lý theo Nghị quyết 42/2017/QH14

    (i) Khoản nợ được hình thành trước ngày 15/08/2017 và được xác định là nợ xấu trước thời gian Nghị quyết có hiệu lực;

    (ii) Khoản nợ được hình thành trước ngày 15/08/2017 và được xác định là nợ xấu trong thời gian Nghị quyết có hiệu lực.

    Đồng thời, Nghị quyết 42/2017/QH14 cũng quy định rõ TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC có trách nhiệm xác nhận bằng văn bản khoản nợ là nợ xấu khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo Nghị quyết.

    2. Về nguyên tắc xử lý nợ xấu

    - Bảo đảm công khai, minh bạch, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan;

    - Phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống;

    - Không sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu;

    - Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật để xảy ra nợ xấu và trong quá trình xử lý nợ xấu phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

    3. Về bán nợ xấu, tài sản bảo đảm thấp hơn giá trị khoản nợ

    Để tháo gỡ vướng mắc, e ngại bị xử lý về trách nhiệm khi bán nợ xấu, tài sản bảo đảm, Nghị quyết 42/2017/QH14 có quy định cho phép TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC được bán nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu công khai, minh bạch, theo quy định của pháp luật, giá bán phù hợp với giá thị trường, có thể cao hơn hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ.

    Quy định này nhằm khẳng định rõ ràng hơn quyền của người bán được quyền bán nợ xấu, tài sản bảo đảm theo đúng quy định pháp luật, kể cả việc bán thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ.

    4. Về mua, bán nợ xấu của VAMC

    Nghị quyết 42/2017/QH14 cho phép VAMC thực hiện các hoạt động mua bán nợ sau:

    - Mở rộng các khoản nợ được mua bán của VAMC. Hiện tại, VAMC chỉ được mua nợ xấu hạch toán trong bảng. Quy định này hạn chế đối tượng các khoản nợ xấu được mua bán theo giá thị trường. Do vậy, bên cạnh việc mua bán các khoản nợ nội bảng, Nghị quyết 42/2017/QH14 cho phép VAMC được mua các khoản nợ xấu đã sử dụng dự phòng rủi ro đang hạch toán ngoài bảng và chuyển đổi các khoản nợ xấu mà VAMC đã mua bằng trái phiếu đặc biệt sang mua theo giá trị thị trường.

    - Bổ sung đối tượng được bán nợ. Nghị quyết 42/2017/QH14 đã bổ sung quy định cho phép VAMC được bán nợ xấu cho các tổ chức, cá nhân bao gồm cả pháp nhân không có chức năng kinh doanh mua, bán nợ.

    - Bổ sung thêm phương thức mua bán nợ theo giá thị trường của VAMC.

    5. Về quyền thu giữ tài sản bảo đảm

    5.1. Về điều kiện thu giữ tài sản bảo đảm:

    Nghị quyết 42/2017/QH14 cho phép TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC được thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm khi có đầy đủ 05 điều kiện sau:

    - Khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 299 Bộ luật dân sự 2015.

    Theo Điều 299 Bộ luật dân sự, quyền xử lý tài sản bảo đảm phát sinh trong các trường hợp sau:

    (i) Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ;

    (ii) Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật; và

    (iii) Trường hợp khác theo thỏa thuận hoặc luật có quy định.

    - Tại hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định pháp luật.

    - Giao dịch bảo đảm, biện pháp bảo đảm đã đăng ký theo quy định pháp luật. Quy định này bảo đảm quyền của bên nhận bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ 3.

    - Tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền; không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật.

    - TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC đã hoàn thành nghĩa vụ công khai thông tin theo quy định tại Nghị quyết.

    5.2. Về việc công khai thông tin

    Nghị quyết 42/2017/QH14 cũng quy định cụ thể TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC phải thực hiện công khai thông tin trước khi thực hiện thu giữ tài sản bảo đảm như sau:

    - Đối với tài sản bảo đảm là bất động sản.

    Nghị quyết 42/2017/QH14 quy định chậm nhất 15 ngày trước ngày thu giữ, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC phải:

    (i) Đăng tải thông tin trên trang thông tin điện tử của mình;

    (ii) Gửi văn bản thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ quan Công an nơi có tài sản bảo đảm;

    (iii) Niêm yết văn bản thông báo tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi bên bảo đảm đăng ký địa chỉ theo hợp đồng bảo đảm và trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản bảo đảm;

    (iv) Thông báo cho bên bảo đảm bằng văn bản theo đường bưu điện có bảo đảm đến địa chỉ của bên bảo đảm theo hợp đồng bảo đảm hoặc gửi trực tiếp cho bên bảo đảm.

    - Đối với tài sản bảo đảm là động sản.

    Việc công khai thông tin được tiến hành theo phương thức:

    (i) Đăng tải thông tin trên trang thông tin điện tử của mình và thông báo về việc thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi bên bảo đảm đăng ký địa chỉ theo hợp đồng bảo đảm trước khi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm;

    (ii) Thông báo cho bên bảo đảm bằng văn bản trước thời điểm thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm bằng cách gửi theo đường bưu điện có bảo đảm đến địa chỉ của bên bảo đảm theo hợp đồng bảo đảm hoặc gửi trực tiếp cho bên bảo đảm.

    5.3. Về thực hiện thu giữ

    Về ủy quyền thu giữ:

    (i) TCTD chỉ được ủy quyền việc thu giữ tài sản bảo đảm cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc TCTD;

    (ii) VAMC chỉ được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho TCTD bán nợ, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc TCTD bán nợ.

    Về trách nhiệm của cơ quan nhà nước:

    (i) Chính quyền địa phương các cấp và cơ quan Công an nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện việc bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm theo đề nghị của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC;

    (ii) Trường hợp bên bảo đảm không hợp tác hoặc không có mặt theo thông báo của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC, đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm tham gia chứng kiến và ký biên bản thu giữ tài sản bảo đảm;

    (iii) Bộ Công an có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan Công an các cấp thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự khi TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm.

    6. Về áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến TSBĐ tại Tòa án

    Thủ tục rút gọn sẽ được áp dụng khi có đầy đủ các điều kiện sau:

    (i) Trong hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu cho bên nhận bảo đảm hoặc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC có quyền xử lý tài sản bảo đảm;

    (ii) Giao dịch bảo đảm, biện pháp bảo đảm đã đăng ký theo quy định của pháp luật;

    (iii) Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn hoặc các đương sự giải trình được chứng cứ về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản.

    7. Về mua, bán khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất

    - Bên mua khoản nợ có nguồn gốc từ khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mà tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đó là quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất hoặc tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai được:

    (i) Quyền nhận thế chấp, đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai là tài sản bảo đảm của khoản nợ đã mua;

    (ii) Kế thừa quyền và nghĩa vụ của bên nhận thế chấp.

    - VAMC được đăng ký thế chấp khi nhận bổ sung tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất hoặc tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai của khoản nợ đã mua.

    8. Về xử lý tài sản bảo đảm là dự án bất động sản

    Nghị quyết 42/2017/QH14 cho phép TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC được chuyển nhượng tài sản bảo đảm là dự án bất động khi có đầy đủ các điều kiện:

    (i) Dự án đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật;

    (ii) Có quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

    (iii) Dự án không có tranh chấp đã được thụ lý chưa giải quyết hoặc đang giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền về quyền sử dụng đất; không đang bị kê biên để bảo đảm thi hành án hoặc để chấp hành quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

    (iv) Không có quyết định thu hồi dự án, thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

    9. Về kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án

    VAMC không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định tại Điều 90 Luật thi hành án dân sự, trừ 02 trường hợp:

    (i) Thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ; và

    (ii) Có sự đồng ý bằng văn bản của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC.

    10. Về bán nợ xấu có tài sản bảo đảm đang bị kê biên

    TCTD có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin về tình trạng bị kê biên của tài sản bảo đảm trước khi thực hiện mua, bán khoản nợ xấu; bên mua tự xác định rủi ro đối với việc mua khoản nợ này. Việc bán tài sản bảo đảm đang bị kê biên này thực hiện theo quy định của pháp luật.

    11. Về hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng

    Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm hoàn trả vật chứng trong vụ án hình sự là tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo đề nghị của bên nhận bảo đảm là TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, sau khi hoàn tất các thủ tục xác định chứng cứ và xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án.

    12. Về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm

    Số tiền thu được từ xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, sau khi trừ chi phí bảo quản, thu giữ và chi phí xử lý tài sản bảo đảm được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ khác không có bảo đảm của bên bảo đảm.

    Đồng thời, Nghị quyết cung quy định trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm thực hiện theo quy định của pháp luật.

    13. Về chuyển nhượng tài sản bảo đảm

    Bên nhận bảo đảm, bên nhận chuyển nhượng không phải thực hiện các nghĩa vụ thuế, phí khác của bên bảo đảm từ số tiền chuyển nhượng tài sản bảo đảm khi thực hiện thủ tục đăng ký, thay đổi quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm.

    14. Về phân bổ lãi dự thu, chênh lệch khi bán khoản nợ xấu của TCTD, tổ chức mua bán và xử lý nợ xấu

    TCTD được phân bổ dần số lãi dự thu đã ghi nhận của các khoản nợ xấu chưa thoái theo quy định, chênh lệch giữa giá trị ghi sổ của khoản nợ đang hạch toán trong bảng cân đối kế toán với giá bán nợ xấu và số tiền dự phòng cụ thể đã trích lập vào kết quả hoạt động kinh doanh hàng năm theo các nguyên tắc sau:

    (i) Mức phân bổ hằng năm tối thiểu là mức chênh lệch thu chi từ kết quả hoạt động kinh doanh hằng năm của TCTD;

    (ii) Thời hạn phân bổ lãi dự thu tối đa không quá 10 năm. Riêng đối với lãi dự thu phải thoái của các khoản nợ bán cho tổ chức mua bán và xử lý nợ xấu, thời gian phân bổ lãi dự thu tối đa không vượt quá thời hạn còn lại của trái phiếu của VAMC; Thời hạn phân bổ chênh lệch giữa giá trị ghi sổ của khoản nợ đang hạch toán trong bảng cân đối kế toán với giá bán nợ xấu và số tiền dự phòng cụ thể đã trích lập tối đa không quá 05 năm;

    (iii) Số lãi dự thu được phân bổ dần theo Nghị quyết là số lãi dự thu đã ghi đến hết ngày 31/12/2016.

    15. Về áp dụng pháp luật

    - Việc xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC được áp dụng theo quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14. Trường hợp Nghị quyết không có quy định thì áp dụng theo quy định của pháp luật hiện hành.

    - Trường hợp có quy định khác nhau giữa Nghị quyết 42/2017/QH14 và luật khác về cùng một vấn đề về xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC thì áp dụng quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14.

    16. Về quy định chuyển tiếp

    Để đảm bảo có cơ chế xử lý chuyển tiếp cho các trường hợp xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm sau khi Nghị quyết này hết hiệu lực thi hành, Nghị quyết 42/2017/QH14 về chuyển tiếp đối với một số trường hợp sau đây:

    (i) Thỏa thuận giữa VAMC với TCTD quy định tại khoản 3 Điều 6 của Nghị quyết 42/2017/QH14 đã có hiệu lực trong thời hạn Nghị quyết có hiệu lực được tiếp tục thực hiện cho đến khi hết thời hạn của thỏa thuận đó;

    (ii) TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC được tiếp tục thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 7 của Nghị quyết 42/2017/QH14 trong trường hợp đã thực hiện việc công khai thông tin theo quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 7 của Nghị quyết trong thời gian Nghị quyết có hiệu lực;

    (iii) Tòa án tiếp tục áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định tại Điều 8 của Nghị quyết 42/2017/QH14 đối với vụ án đã được thụ lý trong thời gian Nghị quyết có hiệu lực.

    Toàn văn Nghị quyết 42/2017/QH14 sẽ được cập nhật sớm nhất cho các bạn! 

     
    6289 | Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn nguyenanh1292 vì bài viết hữu ích
    trang_u (27/07/2017)

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #462608   27/07/2017

    trang_u
    trang_u
    Top 25
    Female
    Đại học

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:18/11/2015
    Tổng số bài viết (2972)
    Số điểm: 44888
    Cảm ơn: 1413
    Được cảm ơn 1718 lần


    Tài liệu giới thiệu nội dung Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của TCTD

    Tài liệu này do Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, VKSNDTC:

    1. Về phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết (Điều 1, Điều 2 và Điều 4)

    1.1. Nghị quyết này được áp dụng để:

    - Xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng (Công ty quản lý tài sản của tổ chức tín dụng Việt Nam - VAMC);

    - Xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của ngân hàng chính sách (gồm Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam (VBSP), Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB)). Tuy nhiên, việc áp dụng quy định của Nghị quyết này không phải là bắt buộc đối với ngân hàng chính sách (khoản 3 Điều 17).

    1.2. Xác định phạm vi các khoản nợ xấu được xử lý theo quy định của Nghị quyết

    a) Về thời gian hình thành

    Nợ xấu được xử lý theo Nghị quyết này gồm:

    - Khoản nợ được hình thành và xác định là nợ xấu trước ngày 15/8/2017 (ngày Nghị quyết có hiệu lực thi hành);

    - Khoản nợ được hình thành trước ngày 15/ 8/2017 và được xác định là nợ xấu trong thời gian Nghị quyết có hiệu lực (15/8/2017 - 14/8/2022).

    Như vậy, đối với khoản nợ hình thành từ ngày 15/8/2017 và sau đó được xác định là nợ xấu thì không áp dụng Nghị quyết này để xử lý.

    Việc quy định phạm vi khoản nợ xấu như trên nhằm bảo đảm tập trung nguồn lực để xử lý các khoản tín dụng xấu đang gây cản trở, mất an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Đối với khoản nợ xấu phát sinh trong hoạt động bình thường của TCTD, thuộc rủi ro trong hoạt động của TCTD thì không áp dụng Nghị quyết này mà áp dụng các quy định của pháp luật về dân sự, về hoạt động của tổ chức tín dụng, đất đai, nhà ở, tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, thi hành án dân sự...hiện hành để giải quyết.

    b) Về tính chất

    Nợ xấu được xử lý theo Nghị quyết này được xác định theo Phụ lục về xác định nợ xấu (ban hành kèm theo Nghị quyết), gồm:

    - Khoản nợ đang hạch toán trong, ngoài bảng cân đối kế toán của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và được xác định theo quy định tại các điều 2, 3, 4 và 5 của Phụ lục (Các điều 2, 3, 4 và 5 của Phụ lục quy định về các hoạt động phát sinh nợ xấu; tiêu chí cụ thể để xác định nợ thuộc nhóm 3, 4, 5 theo phương pháp định lượng và phương pháp định tính; xác định nợ xấu trong trường hợp khách hàng có từ hai khoản nợ trở lên);

    - Khoản nợ xấu mà tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu đã mua của TCTD.

    Để bảo đảm linh hoạt, Nghị quyết quy định: trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, sửa đổi Phụ lục theo đề nghị của Chính phủ và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

    Việc xác định nợ xấu tại Nghị quyết này chỉ là cơ sở để xác định phạm vi nợ xấu được áp dụng cho các chính sách tại Nghị quyết, không ảnh hưởng đến việc phân loại nợ tại Thông tư 02/2013/TT-NHNN (đã được sửa đổi, bổ sung). Nói cách khác, việc phân loại nợ của TCTD vẫn được thực hiện theo quy định tại Thông tư 02/2013/TT-NHNN.

    c) Về trách nhiệm xác nhận một khoản nợ là nợ xấu thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết

    TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC có trách nhiệm xác nhận bằng văn bản khoản nợ là nợ xấu khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo quy định tại Nghị quyết này.

    2. Về nguyên tắc xử lý nợ xấu (Điều 3)

    Để thể hiện rõ mục tiêu, quan điểm ban hành Nghị quyết, tránh sự lạm dụng của các tổ chức, cá nhân liên quan, Điều 3 Nghị quyết quy định về nguyên tắc xử lý nợ xấu, theo đó, việc xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC phải tuân thủ 04 nguyên tắc sau đây:

    (i) Bảo đảm công khai, minh bạch, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan;

    (ii) Phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống;

    (iii) Không sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu;

    (iv) Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật để xảy ra nợ xấu và trong quá trình xử lý nợ xấu phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

    3. Về bán nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu (Điều 5)

    Về nguyên tắc, giá bán nợgiá bán tài sản bảo đảm phản ánh giá trị thị trường tại thời điểm xử lý, giá đó có thể cao hoặc thấp hơn giá trị của khoản nợ trước đây. Thực tế, do biến động của thị trường, giá bán khoản nợ, tài sản bảo đảm thực tế có thể thấp giá trị sổ sách của khoản nợ. Khi bán nợ giá thấp hơn giá trị sổ sách của khoản nợ hoặc xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ không thu hồi đầy đủ nợ gốc làm hiện thực hóa khoản lỗ, buộc TCTD ngay lập tức phải trích lập dự phòng rủi ro cho khoản nợ đó, kéo theo việc xem xét trách nhiệm của các cá nhân có liên quan, dẫn đến tâm lý e ngại của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, cá nhân không dám thực hiện việc bán khoản nợ, tài sản bảo đảm theo giá trị thị trường.

    Pháp luật hiện hành[1] quy định cho phép bán nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo giá trị thị trường. Tuy nhiên, chưa có quy định cụ thể về quyền bán nợ xấu thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ xấu. Do đó, để đảm bảo hiệu quả việc xử lý nợ, tại Điều 5 Nghị quyết số 42/2017/QH14 quy định: TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC bán nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu công khai, minh bạch, theo quy định của pháp luật; giá bán phù hợp với giá thị trường, có thể cao hơn hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ. Quy định này nhằm khẳng định rõ ràng trách nhiệm của người bán theo hướng nếu bán theo đúng quy định pháp luật, kể cả việc bán thấp hơn giá ghi số thì người bán không phải chịu trách nhiệm. Người có hành vi vi phạm pháp luật gây ra nợ xấu vẫn phải chịu trách nhiệm theo quy định pháp luật có liên quan.

    4. Về mua, bán nợ xấu của VAMC (Điều 6)

    Nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của VAMC và để thị trường mua bán nợ hoạt động có hiệu quả, Nghị quyết đã cho phép VAMC thực hiện các hoạt động mua, bán nợ xấu như sau:

    Thứ nhất, về các khoản nợ VAMC được mua, bán

    Hiện tại, VAMC chỉ được mua nợ xấu hạch toán trong bảng, dẫn đến hạn chế các khoản nợ xấu được mua bán theo giá thị trường. Do vậy, Nghị quyết cho phép VAMC: (i) được mua các khoản nợ xấu đã sử dụng dự phòng rủi ro đang hạch toán ngoài bảng của TCTD (trừ khoản nợ xấu của TCTD liên doanh và TCTD 100% vốn nước ngoài);  (ii) được chuyển đổi các khoản nợ xấu mà VAMC đã mua bằng trái phiếu đặc biệt sang mua theo giá trị thị trường (tức là có thể bán lại khoản nợ xấu theo giá hiện hành trên thị trường mà thấp hơn giá khi mua vào bằng trái phiếu đặc biệt).

    Quy định này có ý nghĩa:

    - TCTD sẽ giảm được số nợ xấu bán cho VAMC bằng trái phiếu đặc biệt để xử lý dứt điểm nợ xấu và cải thiện chất lượng tài sản của TCTD;

    - TCTD bán nợ theo giá trị thị trường thu được nợ bằng tiền mặt để phục vụ cho việc mở rộng đầu tư, tín dụng mới; giải phóng vốn bị đọng trong các khoản nợ xấu, giảm chi phí cơ hội và cải thiện khả năng sinh lời của TCTD;

    - TCTD bán được các khoản nợ xấu đang hạch toán ngoài bảng sẽ có thêm thu nhập bất thường và nâng cao khả năng: trích lập dự phòng rủi ro đối với tổn thất do chuyển các khoản nợ xấu mua bằng trái phiếu đặc biệt sang mua theo giá trị thị trường và trích lập dự phòng cho việc xử lý các khoản nợ xấu đang hạch toán trong bảng, tạo động lực khuyến khích TCTD bán nợ xấu theo giá trị thị trường.

    - Góp phần tạo lập, phát triển thị trường mua bán nợ, bảo đảm nguyên tắc thị trường trong xử lý nợ xấu.

    Thứ hai, mở rộng đối tượng được mua nợ xấu của VAMC

    Khoản 2 Điều 26 Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014 quy định “Doanh nghiệp chỉ được bán nợ cho tổ chức kinh tế có chức năng kinh doanh mua bán nợ, không được bán trực tiếp cho đối tượng nợ. Như vậy, VAMC được mua nợ xấu của TCTD nhưng không được bán nợ cho bên thứ ba (ngoài DATC, AMC của TCTD) nếu bên thứ ba không có đăng ký kinh doanh về ngành nghề mua bán nợ, trong khi TCTD bán nợ không bị giới hạn này. Để bảo đảm quyền bình đẳng trong hoạt động mua, bán nợ của VAMC với TCTD, bảo đảm mục tiêu xử lý nhanh nợ xấu, góp phần tạo lập, phát triển thị trường mua bán nợ, Nghị quyết đã bổ sung quy định VAMC được bán nợ xấu cho pháp nhân, cá nhân, bao gồm cả doanh nghiệp không có chức năng kinh doanh mua, bán nợ.

    Thứ ba, để tạo điều kiện cho VAMC thực hiện hoạt động mua, bán nợ theo giá trị thị trường, khoản 3 Điều 6 Nghị quyết đã cho phépVAMC:

    - Được thỏa thuận với TCTD (trừ TCTD liên doanh và TCTD 100% vốn nước ngoài) mua khoản nợ xấu với giá mua bằng giá trị định giá của tổ chức định giá độc lập. Tổ chức định giá độc lập phải do VAMC thống nhất với TCTD lựa chọn để bảo đảm công bằng.

    Quy định này nhằm tạo thêm cơ chế xác định giá mua phù hợp với giá thị trường, bảo đảm các bên dễ đạt được sự thống nhất; không có nghĩa là trong mọi trường hợp, việc mua nợ của VAMC bắt buộc phải thông qua tổ chức định giá độc lập.

    - Được xử lý, bán, thu hồi nợ theo quy định của pháp luật và phân chia phần giá trị còn lại của số tiền thu hồi được từ khoản nợ xấu này sau khi trừ giá mua và các chi phí xử lý.

    5. Về quyền thu giữ tài sản bảo đảm (Điều 7)

    Điều 301 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) quy định: Khi xảy ra một trong các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm quy định tại Điều 299 BLDS mà người đang giữ tài sản không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

    Với nhận thức thu giữ tài sản bảo đảm là một phương thức tự bảo vệ quyền dân sự theo Điều 12 BLDS, trên cơ sở kế thừa quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD tại Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm (Điều 63), Nghị quyết này tiếp tục ghi nhận, đồng thời quy định cụ thể hơn về điều kiện, thủ tục, biện pháp thu giữ tài sản bảo đảm, để khắc phục tình trạng chủ tài sản cố tình chây ỳ, chống đối, làm chậm trễ quá trình xử lý nợ xấu, đồng thời, ngăn chặn việc lạm dụng quyền thu giữ tài sản bảo đảm xâm phạm quyền khác của các chủ thể có liên quan.

    5.1. Về điều kiện thu giữ tài sản bảo đảm

    TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC được thu giữ tài sản bảo đảm khi có đầy đủ 05 điều kiện sau:

    Thứ nhất, khi xảy ra một trong các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 299 BLDS, cụ thể là: (i) Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; (ii) Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật; và (iii) Trường hợp khác theo thỏa thuận hoặc luật có quy định.

    Thứ hai, tại hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm nêu trên.

    Lưu ý: “Hợp đồng bảo đảm” theo Nghị quyết bao gồm cả văn bản khác có ghi nhận thỏa thuận của các bên về vấn đề đó (khoản 1 Điều 7). Văn bản thỏa thuận này không nhất thiết phải được lập cùng thời điểm với hợp đồng bảo đảm, mà chỉ cần được lập trước khi tiến hành việc thu giữ.

    Thứ ba, giao dịch bảo đảm hoặc biện pháp bảo đảm đã được đăng ký theo đúng quy định của pháp luật (quyền của bên nhận bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ 3).

    Thứ tư, tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý tại Tòa án có thẩm quyền (có thể chưa giải quyết hoặc đang được giải quyết); không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật.

    Thứ năm, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC đã hoàn thành nghĩa vụ công khai thông tin theo quy định tại Nghị quyết.

    5.2. Về việc công khai thông tin trước khi thu giữ tài sản bảo đảm

    Nghị quyết quy định TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC phải công khai thông tin trước khi thực hiện thu giữ tài sản bảo đảm như sau:

    a) Đối với tài sản bảo đảm là bất động sản:

    - Thời điểm công khai: Chậm nhất là 15 ngày trước ngày tiến hành thu giữ.

    - Nội dung thông tin được công khai: thời gian, địa điểm thu giữ tài sản bảo đảm, tài sản bảo đảm được thu giữ, lý do thu giữ.

    - Hình thức công khai: TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC phải thực hiện đầy đủ các hình thức sau:

    + Đăng tải thông tin trên trang thông tin điện tử của mình;

    + Gửi văn bản thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ quan Công an nơi có tài sản bảo đảm;

    + Niêm yết văn bản thông báo tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi bên bảo đảm đăng ký địa chỉ theo hợp đồng bảo đảm và trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản bảo đảm;

    + Thông báo cho bên bảo đảm bằng văn bản theo đường bưu điện có bảo đảm đến địa chỉ của bên bảo đảm theo hợp đồng bảo đảm hoặc gửi trực tiếp cho bên bảo đảm.

    b) Đối với tài sản bảo đảm là động sản:

    - Thời điểm công khai: Trước khi tiến hành thu giữ.

    - Nội dung thông tin được công khai: về việc thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm, không bắt buộc phải xác định trước thời gian, địa điểm thu giữ.

    - Hình thức công khai: TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC phải thực hiện đầy đủ các hình thức sau:

    + Đăng tải thông tin trên trang thông tin điện tử của mình;

    + Thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi bên bảo đảm đăng ký địa chỉ theo hợp đồng bảo đảm;

    + Thông báo cho bên bảo đảm bằng văn bản theo đường bưu điện có bảo đảm đến địa chỉ của bên bảo đảm theo hợp đồng bảo đảm hoặc gửi trực tiếp cho bên bảo đảm.

    Như vậy, đối với tài sản bảo đảm là động sản, Nghị quyết không quy định trách nhiệm thông báo cho cơ quan Công an trước khi thu giữ. Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC có thể đề nghị cơ quan Công an nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm thực hiện việc bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong quá trình thu giữ tài sản theo quy định tại khoản 5 Điều 7 của Nghị quyết.

    5.3. Về chủ thể thu giữ

    Các chủ thể sau đây có quyền thu giữ tài sản bảo đảm:

    - TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC;

    - Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc TCTD nhận bảo đảm khi được TCTD đó ủy quyền;

    - TCTD bán nợ hoặc công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc TCTD bán nợ khi được VAMC đã mua nợ của TCTD đó ủy quyền.

    (Lưu ý: Nghị quyết quy định về nguyên tắc, TCTD phải trực tiếp thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm. TCTD chỉ được ủy quyền thực hiện việc thu giữ tài sản bảo đảm cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc TCTD đó; VAMC chỉ được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho TCTD bán nợ, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc TCTD bán nợ).

    5.4. Về biện pháp thu giữ

    Nghị quyết quy định rõ TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC, tổ chức được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm không được áp dụng các biện pháp vi phạm điều cấm của pháp luật trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm.

    Điều 12 BLDS quy định: Việc tự bảo vệ quyền dân sự phải phù hợp với tính chất, mức độ xâm phạm đến quyền dân sự đókhông được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của BLDS.

    Quyền thu giữ tài sản bảo đảm phát sinh khi bên bảo đảm, bên giữ tài sản không giao tài sản bảo đảm cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC để xử lý. Như vậy, bên nhận bảo đảm đã bị xâm phạm đến quyền nắm giữ, chi phối một cách trực tiếp đối với tài sản bảo đảm, dẫn đến khó khăn trong việc xử lý tài sản bảo đảm.

    Do đó, theo tinh thần của Nghị quyết, để thu giữ tài sản bảo đảm, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC được thực hiện các biện pháp cưỡng chế đối với tài sản để xác lập quyền nắm giữ, chi phối trực tiếp tài sản, không được thực hiện biện pháp cưỡng chế đối với người. Ví dụ: trong trường hợp thu giữ tài sản bảo đảm là nhà ở, có thể thực hiện các biện pháp thu giữ như: cắt khóa để vào nhà; đối với tài sản trong nhà có thể kiểm kê, di chuyển ra khỏi nhà đến nơi gửi giữ; thay khóa và niêm phong…Toàn bộ quá trình thu giữ phải có sự chứng kiến của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tiến hành thu giữ, được lập biên bản và có chữ ký của người chứng kiến.

    5.5. Về trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong quá trình thu giữ

    * Khoản 5 Điều 7 Nghị quyết quy định:

    - Chính quyền địa phương các cấp và cơ quan Công an nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện việc bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm theo đề nghị của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC;

    - Trường hợp bên bảo đảm không hợp tác hoặc không có mặt theo thông báo của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC thì đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm tham gia chứng kiến và ký biên bản thu giữ tài sản bảo đảm.

    * Về trách nhiệm của cơ quan Công an trong việc thu giữ tài sản bảo đảm, Nghị quyết chỉ quy định trách nhiệm củacơ quan Công an nơi có tài sản bảo đảm(đối với tài sản bảo đảm là bất động sản), cơ quan Công an nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm (đối với tài sản bảo đảm là động sản) mà không quy định rõ là cơ quan Công an cấp tỉnh, cấp huyện hay cấp xã. Trách nhiệm của cơ quan Công an các cấp trong việc thực hiện Nghị quyết này do Bộ Công an quy định (khoản 7 Điều 7).

    6. Về việc áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tại Tòa án (Điều 8)

    Theo Bộ luật TTDS năm 2015, thời gian thực hiện thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo trình tự thủ tục tố tụng rút gọn sẽ được rút ngắn hơn trình tự thông thường từ khoảng từ 03 tháng đến 07 tháng. Việc TCTD không được áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn ảnh hưởng lớn đến tiến độ xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của TCTD. Do đó, nhằm tăng hiệu quả hoạt động xử lý tài sản bảo đảm qua tòa án, Điều 8 Nghị quyết số 42/2017/QH14 quy định về áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tại Tòa án; cụ thể như sau:

    a) Các tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm được áp dụng thủ tục rút gọn

    Điều 8 Nghị quyết số 42/2017 quy định Tòa án áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết 02 loại tranh chấp sau đây:

    - Tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm;

    - Tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC.

    b) Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn

    Đối với 02 loại tranh chấp nêu trên, Tòa án phải áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết khi có đủ các điều kiện sau đây:

    - Trong hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu cho bên nhận bảo đảm hoặc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC có quyền xử lý tài sản bảo đảm;

    - Giao dịch bảo đảm hoặc biện pháp bảo đảm đã được đăng ký theo quy định của pháp luật;

    - Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn hoặc các đương sự giải trình được chứng cứ về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản.

    * Như vậy, trong việc xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo Nghị quyết này mà phát sinh 02 loại tranh chấp nêu trên và có yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa án phải xem xét tranh chấp có đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn hay không. Khi xem xét, Tòa án căn cứ vào 03 điều kiện tại khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết, không căn cứ vào khoản 1 Điều 317 BLTTDS để quyết định việc áp dụng thủ tục rút gọn.

    c) Thủ tục giải quyết tranh chấp

    Trường hợp tranh chấp đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn thì Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn và tuân thủ các quy định về trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết tại các khoản 3 và 4 Điều 317, các điều 318, 319, 320, 321, 322, 323 và 324 BLTTDS.

    d) Nghị quyết giao trách nhiệm cho Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) hướng dẫn thực hiện quy định tại Điều 8 Nghị quyết số 42/2017/QH14. Hiện nay, TANDTC đang phối hợp với VKSND tối cao và các cơ quan khác có liên quan nghiên cứu, xây dựng Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về vấn đề này.

    7. Về mua, bán khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất (Điều 9)

    Các điều 174, 175 và 176 Luật Đất đai năm 2013 chỉ cho phép TCTD được phép hoạt động tại Việt Nam được nhận thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Nghị định 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai đã quy định bổ sung tổ chức mua bán nợ cũng được nhận thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Để thống nhất quy định của pháp luật về vấn đề này, phù hợp với chủ trương mở rộng đối tượng được mua nợ xấu tại khoản 2 Điều 6, Điều 9 Nghị quyết quy định: 

    Thứ nhất, bên mua khoản nợ có nguồn gốc từ khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mà tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đó là quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất hoặc tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai được: (i) Nhận thế chấp, đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai là tài sản bảo đảm của khoản nợ đã mua; (ii) Kế thừa quyền và nghĩa vụ của bên nhận thế chấp. 

    Thứ hai, VAMC được đăng ký thế chấp khi nhận bổ sung tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất hoặc tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai của khoản nợ đã mua.

    Để bảo đảm quy định trên có tính khả thi, Nghị quyết đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai; đăng ký thay đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất là tài sản bảo đảm của khoản nợ có nguồn gốc từ khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

    8. Về xử lý tài sản bảo đảm là dự án bất động sản (Điều 10)

    Theo điểm b khoản 1 Điều 49 Luật Kinh doanh bất động sản 2014, dự án bất động sản chỉ được chuyển nhượng khi dự án, phần dự án chuyển nhượng đã hoàn thành xong việc bồi thường, giải phóng mặt bằng. Đối với trường hợp chuyển nhượng toàn bộ dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thì phải xây dựng xong các công trình hạ tầng kỹ thuật tương ứng theo tiến độ ghi trong dự án đã được phê duyệt. Thêm nữa, theo Khoản 2 Điều 49, điều kiện chuyển nhượng bất động sản là chủ đầu tư chuyển nhượng phải có giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất đối với toàn bộ hoặc phần dự án chuyển nhượng.

    Hiện tại, có rất nhiều khoản nợ xấu đã bán cho VAMC có tài sản bảo đảm là dự án bất động sản hoặc tài sản hình thành trong tương lai là các dự án bất động sản không có đủ điều kiện chuyển nhượng nêu trên, nên đã cản trở quyền xử lý tài sản bảo đảm hợp pháp của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC.

    Để khắc phục vướng mắc nêu trên, Nghị quyết đã cho phép TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC được chuyển nhượng tài sản bảo đảm là dự án bất động sản khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:

    - Dự án đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật;

    - Có quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

    - Dự án không có tranh chấp về quyền sử dụng đất đã được Tòa án có thẩm quyền thụ lý; không đang bị kê biên để bảo đảm thi hành án hoặc để chấp hành quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

    - Không có quyết định thu hồi dự án, thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

    Đồng thời, để bảo đảm quyền lợi của các bên liên quan (bao gồm cả người mua nhà tại dự án nhà ở), Nghị quyết quy định bên nhận chuyển nhượng dự án phải: (i) Đáp ứng điều kiện theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản; (ii) Kế thừa các quyền, nghĩa vụ của chủ đầu tư dự án và tiến hành các thủ tục để tiếp tục thực hiện dự án theo quy định của pháp luật về đầu tư, pháp luật về xây dựng.

    9. Về kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án (Điều 11)

    Điều 90 Luật thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) cho phép Chấp hành viên kê biên cả tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án đang thế chấp/cầm cố tại TCTD. Quy định này ảnh hưởng lớn đến quyền chủ nợ hợp pháp của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, làm gia tăng nợ xấu, đặc biệt trong trường hợp tài sản bảo đảm là tài sản hình thành từ vốn vay hoặc là nguồn thu nhập chính để trả nợ. Để giải quyết nhanh nợ xấu theo tinh thần Nghị quyết, Điều 11 Nghị quyết đã quy định tài sản bảo đảm của người phải thi hành án đang bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định tại Điều 90 Luật thi hành án dân sự, trừ 02 trường hợp: (i) Thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ; (ii) Có sự đồng ý bằng văn bản của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC.

    Chú ý: Đây là 02 trường hợp riêng biệt, khi kê biên tài sản bảo đảm của người phải thi hành án để thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ thì không cần có sự đồng ý của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC.

    10. Về bán nợ xấu có tài sản bảo đảm đang bị kê biên (Điều 13)

    Hiện nay, TCTD không được bán cho VAMC khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm đang bị kê biên. Để xử lý nợ xấu của các TCTD, đặc biệt là các TCTD yếu kém, Nghị quyết đã quy định cho phép TCTD được quyền bán nợ xấu có tài sản bảo đảm đang bị kê biên cho VAMC, doanh nghiệp có chức năng kinh doanh mua, bán nợ. Đồng thời, quy định rõ TCTD có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin về tình trạng bị kê biên của tài sản bảo đảm trước khi thực hiện mua, bán khoản nợ xấu; bên mua tự xác định rủi ro đối với việc mua khoản nợ này; việc bán tài sản bảo đảm đang bị kê biên được thực hiện theo quy định của pháp luật.

    11. Về hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự (Điều 14)

    Điều 76 BLTTHS năm 2003, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS năm 2015 quy định: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan, người có thẩm quyền có quyền trả lại vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án.

    Để bảo đảm quyền xử lý tài sản bảo đảm hợp pháp của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC, góp phần tăng cường hiệu quả xử lý nợ xấu, Nghị quyết quy định như sau: cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm hoàn trả vật chứng trong vụ án hình sự là tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo đề nghị của bên nhận bảo đảm là TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC, sau khi hoàn tất thủ tục xác định chứng cứ và xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án.

    12. Về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm (Điều 12)

    Theo quy định của pháp luật[2], số tiền có được từ việc xử lý tài sản bảo đảm phải thanh toán nghĩa vụ thuế trước khi thực hiện nghĩa vụ ưu tiên thanh toán cho bên nhận bảo đảm là TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thực tế phổ biến là nhiều trường hợp số tiền bán tài sản bảo đảm dù đã hoặc chưa thanh toán nghĩa vụ thuế thì cũng không đủ thu hồi nợ cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Do đó, nhằm tạo điều kiện để TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có thể thu hồi được khoản nợ xấu từ xử lý tài sản bảo đảm, qua đó giảm thiểu nợ xấu cho nền kinh tế, Điều 12 Nghị quyết quy định: Số tiền thu được từ xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, sau khi trừ chi phí bảo quản, thu giữ và chi phí xử lý tài sản bảo đảm được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ khác không có bảo đảm của bên bảo đảm. Trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm thực hiện theo quy định của pháp luật (theo Điều 308 BLDS).

    13. Về chuyển nhượng tài sản bảo đảm (Điều 15)

    Để khắc phục tình trạng cơ quan thuế yêu cầu bên nhận bảo đảm trích số tiền thu được từ việc bán tài sản bảo đảm để thanh toán nghĩa vụ nợ thuế khác của bên bảo đảm thì mới xác nhận hoàn thành nghĩa vụ tài chính khi làm thủ tục sang tên tài sản bảo đảm cho bên mua, bên nhận chuyển nhượng; để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của bên nhận bảo đảm, bên nhận chuyển nhượng tài sản bảo đảm, Nghị quyết quy định: bên nhận bảo đảm, bên nhận chuyển nhượng không phải thực hiện các nghĩa vụ thuế, phí khác của bên bảo đảm từ số tiền chuyển nhượng tài sản bảo đảm khi thực hiện thủ tục đăng ký, thay đổi quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm. Đồng thời, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản phải thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản cho bên mua, bên nhận chuyển nhượng tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

    14. Về phân bổ lãi dự thu, chênh lệch khi bán khoản nợ xấu của TCTD, VAMC (Điều 16)

    Để tình hình tài chính của TCTD không bị tác động xấu do việc thoái lãi dự thu, phân bổ ngay chênh lệch giữa giá trị khoản nợ và giá bán nợ, đồng thời để hỗ trợ TCTD, VAMC có thêm nguồn lực tài chính cho hoạt động kinh doanh, Nghị quyết đã cho phép TCTD được phân bổ dần số lãi dự thu đã ghi nhận của các khoản nợ xấu chưa thoái theo quy định, chênh lệch giữa giá trị ghi sổ của khoản nợ đang hạch toán trong bảng cân đối kế toán với giá bán nợ xấu và số tiền dự phòng cụ thể đã trích lập vào kết quả hoạt động kinh doanh hàng năm theo các nguyên tắc sau:

    - Mức phân bổ hằng năm tối thiểu là mức chênh lệch thu chi từ kết quả hoạt động kinh doanh hằng năm của TCTD;

    - Thời hạn phân bổ lãi dự thu tối đa không quá 10 năm. Riêng đối với lãi dự thu phải thoái của các khoản nợ bán cho VAMC, thời gian phân bổ lãi dự thu tối đa không vượt quá thời hạn còn lại của trái phiếu của VAMC; Thời hạn phân bổ chênh lệch giữa giá trị ghi sổ của khoản nợ đang hạch toán trong bảng cân đối kế toán với giá bán nợ xấu và số tiền dự phòng cụ thể đã trích lập tối đa không quá 05 năm;

    - Số lãi dự thu được phân bổ dần theo Nghị quyết là số lãi dự thu đã ghi nhận đến hết ngày 31/12/2016.

    Nghị quyết cũng cho phép VAMC được phân bổ chênh lệch giữa giá trị ghi sổ của khoản nợ đang hạch toán trong bảng cân đối kế toán với giá bán khoản nợ xấu đã mua theo giá trị thị trường và số tiền dự phòng cụ thể đã trích lập vào kết quả hoạt động kinh doanh hàng năm với mức phân bổ tối thiểu là chênh lệch thu chi.

    15. Về áp dụng pháp luật (Điều 17)

    Trên cơ sở nguyên tắc, mục tiêu, quan điểm xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật thí điểm áp dụng chính sách mới về xử lý nợ xấu, Điều 17 đã quy định nguyên tắc áp dụng quy định của Nghị quyết này với quy định của pháp luật hiện hành về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu như sau: 

    Thứ nhất, việc xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC được áp dụng theo quy định của Nghị quyết này. Trường hợp Nghị quyết không có quy định thì áp dụng theo quy định của pháp luật hiện hành. 

    Thứ hai, trường hợp có quy định khác nhau giữa Nghị quyết này và luật khác về cùng một vấn đề về xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC thì áp dụng quy định của Nghị quyết này.

    16. Về quy định chuyển tiếp (Điều 18)

    Điều 18 quy định cơ chế xử lý chuyển tiếp khi Nghị quyết hết hiệu lực thi hành đối với một số trường hợp cụ thể sau đây:

    (i) Thỏa thuận giữa VAMC với TCTD quy định tại khoản 3 Điều 6 của Nghị quyết đã có hiệu lực trong thời gian Nghị quyết có hiệu lực được tiếp tục thực hiện cho đến khi thực hiện xong thỏa thuận đó;

    (ii) TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC được tiếp tục thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 7 của Nghị quyết nếu đã thực hiện việc công khai thông tin theo quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 7 của Nghị quyết trong thời gian Nghị quyết có hiệu lực;

    (iii) Tòa án tiếp tục áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định tại Điều 8 của Nghị quyết đối với vụ án đã được thụ lý trong thời gian Nghị quyết có hiệu lực.

    17. Về điều khoản thi hành (Điều 19)

    Điều 19 quy định về thời điểm và thời hạn có hiệu lực của Nghị quyết, theo đó, Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 15/8/2017 và được thực hiện trong thời hạn 05 năm từ ngày có hiệu lực thi hành (Nghị quyết sẽ hết hiệu lực sau ngày 14/8/2022).

    Đồng thời, quy định trách nhiệm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội; Chính phủ; Tòa án nhân dân tối cao; Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; chính quyền địa phương các cấp trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình giám sát, tổ chức thực hiện, hướng dẫn thi hành, thanh tra, kiểm tra, tổng kết việc thực hiện Nghị quyết này; đề xuất giải pháp hạn chế nợ xấu, hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm./.

    NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý

    1. Xác định pháp luật để áp dụng

    Khi phát sinh vụ án, vụ việc có liên quan đến việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm, nếu thuộc trách nhiệm thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND thì Kiểm sát viên cần xác định rõ nợ xấu được xử lý có thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết này hay không. VKSND có quyền yêu cầu TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC xác nhận bằng văn bản khoản nợ là nợ xấu theo quy định của Nghị quyết này.

    2. Kiểm sát việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tại Tòa án

    Khi kiểm sát việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tại Tòa án, Kiểm sát viên cần lưu ý:

    - Chỉ có tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm (bên bảo đảm có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm không?) hoặc tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm (bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm không?) của khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC mới được áp dụng các điều kiện tại khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết để Toà án xem xét giải quyết theo thủ tục rút gọn.

    - Tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm hoặc tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC chỉ cần đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết là được áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết (không cần đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 317 BLTTDS).

    - Việc chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, tại phiên tòa được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 317, khoản 4 Điều 320, khoản 4 Điều 323 BLTTDS.

    - Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát việc giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn thực hiện theo quy định của BLTTDS.

    3. Hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự

    - Bên nhận bảo đảm là TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC phải có văn bản đề nghị hoàn trả.

    - Nếu việc hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng được thực hiện trong giai đoạn điều tra, xét xử vụ án hình sự thì VKS có trách nhiệm kiểm sát chặt chẽ điều kiện, thẩm quyền và thủ tục hoàn trả. Nếu việc hoàn trả hoặc không hoàn trả không có căn cứ, không đúng quy định thì VKS có quyền kiến nghị.

    - Nếu TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC có văn bản đề nghị hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong giai đoạn truy tố thì Kiểm sát viên lưu ý các vấn đề sau:

    + Xác định chính xác tài sản được đề nghị hoàn trả là tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết này;

    + Xác định chính xác người có văn bản đề nghị hoàn trả là TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc VAMC là bên nhận bảo đảm bằng tài sản đó;

    + Xác định tài sản bảo đảm có phải là vật chứng không?. Nếu không phải là vật chứng thì hoàn trả theo quy định của pháp luật. Nếu là vật chứng thì phải xem xét việc hoàn trả có làm ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án không?

    + Quyết định hoàn trả hoặc không hoàn trả vật chứng.

    -  TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC đã đề nghị hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng ở giai đoạn tố tụng trước mà chưa được đáp ứng thì có quyền tiếp tục đề nghị ở giai đoạn tố tụng tiếp theo.

    4. Kiểm sát thi hành án liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu

    Khi kiểm sát thi hành án liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, Kiểm sát viên cần đặc biệt chú ý quy định sau: (i) Xử lý tài sản bảo đảm là dự án bất động sản (Điều 10); (ii) Kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án (Điều 11); Thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm (Điều 12); và Chuyển nhượng tài sản bảo đảm (Điều 15) của Nghị quyết số 42/2017/QH14./.



    [1] Khoản 1 Điều 14 Nghị định số 53/2013/NĐ-CP; Điều 10 và Điều 12 Thông tư số 09/2015/TT-NHNN.

    [2] Các khoản 4, 5 Điều 17 Thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014 hướng dẫn thi hành Nghị định số 218/2013/NĐ-CP và khoản 3 Điều 26 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013.

     

     
    Báo quản trị |