Tài sản chung là kết quả của sự đóng góp của cả hai vợ chồng. Vậy khi một trong hai người tự ý chuyển nhượng tài sản chung, người còn lại có thể khởi kiện đòi lại phần tài sản của mình không?
(1) Một mình chồng chuyển nhượng tài sản chung, vợ có thể đòi lại một nửa không?
Tham khảo theo tình huống tại Bản án 80/2020/DS-PT do Tòa án Nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử ngày ngày 27/11/2020 về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất:
Tóm tắt tình huống:
“Ông B và bà Tr đã tạo lập tài sản chung là một diện tích đất 643,8m² tại Phú Yên. Ngày 12/3/1994, ông B có đề cập việc chuyển nhượng một phần đất cho ông A và bà B2 với bà Tr, bà Tr biết việc chuyển nhượng này, tuy nhiên khi ký giấy bán đất và nhận vàng thì bà Tr không chứng kiến.
Ông A và bà B2 muốn tặng cho quyền sử dụng đất trên cho anh H là con ruột của hai ông bà và chị Th là vợ của anh H. Tuy nhiên, trong quá trình xây nhà trên mảnh đất trên, anh H và chị Th đã xây dựng lấn chiếm 0,04m chiều ngang, tổng diện tích 0,7m². Nay anh H và thị Th yêu cầu ông B và bà Tr tách thửa giao diện tích đất đã chuyển nhượng.
Ông B đồng ý thực hiện hợp đồng chuyển nhượng theo đúng diện tích đã ghi trong bản trích đo. Tuy nhiên, bà Tr chỉ đồng ý với ½ hợp đồng vì cho rằng ông B đã tự ý chuyển nhượng tài sản chung mà không có chữ ký của bà. Do đó, bà Tr yêu cầu Tòa buộc anh H, chị Th trả lại ½ diện tích đất tương ứng với phần tài sản của bà hoặc phải tháo dỡ phần lấn chiếm 0,7 m² hàng rào, bà Tr không yêu cầu gì thêm.”
Nhận định của Tòa án:
Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ (Giấy bán đất) xác lập ngày 12/3/1994 giữa ông A, bà B2 với ông B đã thực hiện đúng về điều kiện và nội dung của hợp đồng được quy định tại các điều 705, 706,708, 713 của Bộ luật dân sự 1995 và khoản 2 Điều 3, Điều 73, Điều 75 của Luật đất đai 1993.
Hợp đồng được xác lập giữa các bên chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công chứng, chứng thực là đã vi phạm về hình thức được quy định tại Điều 707 của Bộ luật dân sự 1995 và khoản 2 Điều 31 Luật đất đai 1993.
Cấp sơ thẩm đã áp dụng hướng dẫn tại Nghị quyết: 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình tại điểm b.3 tiểu mục 2.3 mục 2 phần II về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ sau ngày 15/10/1993 và Án lệ số 04/2016/AL của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06/4/2016 để chấp nhận yêu cầu của ông Ánh, bà Bảo, anh Hội, chị Thoa: Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác lập ngày 12/3/1994 giữa ông A, bà B2 với ông B, bà Tr với diện tích 114,3m2 thuộc một phần thửa đất số 157, tờ bản đồ 353-D. Công nhận phần diện tích 114,3m2 theo sơ đồ hiện trạng lập ngày 16/10/2019 và buộc ông B, bà Tr phải tách thửa giao phần diện tích đất trên cho ông A, bà B2 để ông A, bà B2 tặng cho anh H, chị Th quản lý, sử dụng là có căn cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Tr đã rút một phần kháng cáo, công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà chồng bà đã ký và nhận vàng nên căn cứ khoản 3 Điều 289 Bộ luật tố tụng dân sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với một phần yêu cầu phản tố của bà Trơn về không chấp nhận ½ giá trị hợp đồng và buộc anh Trần Văn H, chị Nguyễn Thị Kim Th trả ½ diện tích đất đã chuyển nhượng.
Bình luận bản án:
Tại Điều 37 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 có quy định:
“Điều 37. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:
1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
….”
Bên cạnh đó, Điều 430 Bộ Luật Dân sự 2015 cũng quy định:
“Điều 430. Hợp đồng mua bán tài sản
Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán.”
Như vậy, căn cứ theo các quy định trên thì cả hai vợ chồng đều có nghĩa vụ về tài sản chung, điều này đồng nghĩa với việc khi đã giao kết hợp đồng mua bán tài sản thì cả hai vợ chồng đều có nghĩa vụ phải chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và được nhận tiền từ bên mua.
Trường hợp chỉ có chồng ký tên trong hợp đồng chuyển nhượng tài sản chung, vợ không ký tên nhưng việc chuyển nhượng đã được cả hai vợ chồng thỏa thuận, thống nhất thì vợ có nghĩa vụ cùng chồng chuyển quyền sở hữu tài sản cho người mua, việc khởi kiện đòi lại một nửa tài sản lúc này sẽ không có cơ sở.
Ngược lại, trường hợp chỉ có chồng ký tên bán tài sản chung, vợ không có thỏa thuận với chồng về việc bán tài sản này thì việc chuyển nhượng không đúng với quy tắc nêu trên, do đó, hợp đồng mua bán tài sản chung này có thể sẽ bị Tòa án tuyên bố vô hiệu nếu người vợ khởi kiện.
(2) Tài sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản gì?
Căn cứ theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, tài sản chung của vợ chồng được quy định như sau:
- Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
- Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
- Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
- Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Như vậy, tài sản chung của vợ chồng được xác định là những tài sản được vợ chồng tạo ra, hay có được từ thu nhập do lao động, sản xuất, kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân, trừ khi vợ chồng có thỏa thuận khác.
Đối với tài sản là quyền sử dụng đất mà một trong hai vợ chồng được tặng cho, thừa kế riêng hoặc có được do có hoạt động mua bán bằng tài sản riêng thì tài sản đó được tính là tài sản riêng.
Đối với những tài sản được nhận thừa kế chung hay nhận tặng cho chung hay vợ chồng có thỏa thuận là tài sản chung thì đó tài sản đó là tài sản chung.