Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Nguyễn Đức Long - luatsuduclong

3 Trang <123>
  • Xem thêm     

    19/03/2013, 10:48:06 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào em!

    Theo điểm a khoản 2 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự như sau: "Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng".

    Như vậy, em trộm cắp 15 triệu đồng thuộc trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng và đến nay đã 8 năm nên đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu người chủ đó biết và tố cáo thì em vẫn không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Thân!

  • Xem thêm     

    18/02/2013, 11:41:05 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo.

    Trường hợp TAND tỉnh mở phiên tòa xét xử vụ án trên mà gia đình bạn thấy chưa thỏa đáng thì có thể làm đơn kháng cáo bản án để TAND tối cao xét xử lại. Thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.

    Thân!

  • Xem thêm     

    29/01/2013, 11:32:17 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Theo thông tin bạn cung cấp, tôi tư vấn như sau:

    Vụ án trộm cắp tài sản của gia đình bạn đã tìm ra được người phạm tội, cơ quan điều tra sẽ có trách nhiệm điều tra để truy tìm số tài sản bị mất trả lại cho người bị hại.

    Trong trường hợp người bị bắt có hành vi trộm cắp tài sản là 5.2 cây vàng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm theo quy định tại điểm a, khoản 3 Điều 138 về Tội trộm cắp tài sản  như sau: "Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng".

    Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.

    Thân!

     

     

  • Xem thêm     

    26/01/2013, 05:20:18 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Tại Điều 248 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2009 quy định về Tội đánh bạc:

    "1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tính chất chuyên nghiệp;

    b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên;

    c) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.”

    Số tiền bắt được trên chiếu bạn của những người tham gia đánh bạc chưa tới 300 nghìn nên chưa đủ yếu tố cấu thành tội đánh bạc nên không bị truy cứu tránh nhiệm hình sự, chỉ bị phạt hành chính.

    Thân chào!

  • Xem thêm     

    26/01/2013, 04:31:15 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Trong trường hợp em bạn đang bị thương không trực tiếp thực hiện việc đánh nhau nhưng xác định được em bạn có tham gia với vai trò lài người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức thì em bạn sẽ là người đồng phạm trong tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác, mức hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    Theo quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của  người khác:  "Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm".

    Còn trong trường hợp xác định em bạn không tham gia đánh nhau, không có vai trò gì trong vụ việc này thì em bạn không có hành vi phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác.

    Thân!

  • Xem thêm     

    25/01/2013, 11:56:33 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Thủ tục mở tài khoản ở ngân hàng VCB chặt chẽ nên thông tin về chủ tài khoản rất chính xác. Trong trường hợp có căn cứ cho rằng người kia có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bạn thì bạn có thể làm đơn trình báo tới cơ quan điều tra về hành vi nêu trên.

    Theo thông tin bạn cung cấp thì người đó vi phạm pháp luật theo quy định tại khoản Điều139 Bộ luật hình sự về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

    "Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến ba năm".

    Thân!

  • Xem thêm     

    25/01/2013, 10:57:02 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Theo thông tin bạn cung cấp thì người lấy trộm chiếc vòng vàng lần thứ nhất và người lấy trộm chiếc vòng vàng lần thứ hai đều phạm tội Trộm cắp tài sản.

    Tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự quy định về Tội trộm cắp tài sản như sau:

    "Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm".

    Bạn có thể trình báo cơ quan điều tra về hành vi của những người nêu trên để truy tìm lại chiếc vòng vàng của bạn.

    Thân!

     

  • Xem thêm     

    25/01/2013, 10:38:47 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Một người nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản thì mới được coi là có hành vi phạm tội "lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" theo Điều140 Bộ luật hình sự.

    Việc nhân viên đó đã ký xác nhận công nợ, cam kết thanh toán với công ty, đã trả cho công ty 40 triệu, đến nay chưa trả số tiền còn lại cho công ty thì chỉ là quan hệ dân sự, chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

    Để đòi được số tiền còn lại, công ty bạn có thể khởi kiện người nhân viên đó để yêu cầu Toà án buộc người đó phải cho công ty bạn số tiền còn thiếu.

    Thân!

  • Xem thêm     

    24/01/2013, 11:05:25 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào em!

    Theo thông tin em cung cấp ở câu hỏi lần trước chưa được cụ thể, tôi tư vấn theo hai trường hợp sau:

    - Thứ nhất, cậu em nhà em năm 2007 phạm tội Trộm cắp tài sản mà chưa được xóa án tích, tháng 12/2010 lại phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, đến tháng 12/2012 lại có hành vi phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy thì đây là trường hợp "Tái phạm nguy hiểm" theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 49 Bộ Luật Hình sự nên bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm p khoản 2 Điều 194 Bộ Luật Hình sự.

    - Thứ hai, cậu em nhà em năm 2007 phạm tội Trộm cắp tài sản đã được xóa án tích, tháng 12/2010 lại phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng chưa được xóa án tích, đến tháng 12/2012 lại có hành vi phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy thì đây là trường hợp "Tái phạm" theo quy định tại khoản 1 Điều 49 Bộ Luật Hình sự nên chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 194 Bộ Luật Hình sự.

    Thân!

  • Xem thêm     

    17/01/2013, 06:28:25 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Nguyễn Đức Long - Văn phòng luật sư Đức Tín - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn như sau:

    I. Về mức án tù đối với hành vi giết người tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bác bạn. Theo quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999 về Tội giết người quy định khung hình phạt như sau:

    "1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a)  Giết nhiều người;

    b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;

    c) Giết trẻ em;

    d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

    đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng  hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;

    g)  Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;

    h)  Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

    i)  Thực hiện tội phạm một cách man rợ;

    k)  Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;

    l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;

    m) Thuê giết người hoặc giết  người thuê;

    n)  Có tính chất côn đồ;

    o)  Có tổ chức;

    p)  Tái phạm nguy hiểm;

    q) Vì động cơ đê hèn.

    2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm".

    II. Theo thông tin bạn cung cấp thì chưa thấy bác bạn có thình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

    III. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo.

    Bác bạn phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, đã bỏ trốn 30 năm thì sẽ không được các cơ quan tiến hành tố tụng chấp thuận cho bảo lĩnh. Vì vậy, việc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm sẽ không được xem xét.

    Thân!

  • Xem thêm     

    10/01/2013, 03:48:05 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Nguyễn Đức Long - Đoàn luật sư Hà Nội tư vấn như sau:

    Đối với vụ án của gia đình bạn, người hàng xóm kia ngoài việc phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi giết người của mình còn phải chịu trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại:

    Theo quy định tại Điều 610 Bộ luật dân sự năm 2005 về Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm như sau:

    "1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

    a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết;

    b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

    c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.

    2. Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định".

    Trường hợp em bạn mới 16 tuổi được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi (trừ trường hợp em bạn đã tham gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân), đối với mẹ bạn mà không có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết.

    Thân!

  • Xem thêm     

    10/01/2013, 11:52:59 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Với phần tư vấn của tôi như trên, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 248 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự năm 2009 về Tội đánh bạc thì khung hình phạt là "cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm".

    Thân!

  • Xem thêm     

    09/01/2013, 09:20:21 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Nguyễn Đức Long - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn như sau:

    1. Thời gian khởi tố một vụ án hình sự trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, nếu có nhiều tình tiết phức tạp có thể dài thêm hai tháng.

    Theo quy định tại khoản 2 Điều 103 Bộ Luật tố tụng hình sự về Nhiệm vụ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố:

    "Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.

    Trong trường hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng không quá hai tháng".

    2. Theo thông tin bạn cung cấp là người nhà bạn bị tại nạn giao thông nhưng trong vụ án này người nhà bạn tham gia tố tụng với một trong các địa vị pháp lý là bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người là chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

    Nếu người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử trong trường hợp sự vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án.

    Nếu thấy sự vắng mặt của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự chỉ trở ngại cho việc giải quyết vấn đề bồi thường thì Hội đồng xét xử có thể tách việc bồi thường để xét xử sau theo thủ tục tố tụng dân sự.

    Thân chào!

  • Xem thêm     

    04/01/2013, 03:02:42 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!
    Theo thông tin bạn cung cấp, luật sư Nguyễn Đức Long - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn như sau:

    Anh trai bạn tham gia đá gà với vai trò làm trọng tài với số tiền 2.000.000 đồng và bị công an bắt. Như vậy, anh trai bạn đã có hành vi tổ chức đánh bạc theo quy định tại Điều 249 Bộ Luật hình sự thuộc trường hợp không phải với quy mô lớn nhưng phải chịu trách nhiệm hình sự về đồng phạm tội đánh bạc.

    Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự như sau: "Người tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc trường hợp chưa đến mức được hướng dẫn tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều này, nếu tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng thì tuy họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về “tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc” nhưng họ phải chịu trách nhiệm hình sự về đồng phạm tội đánh bạc".

    Theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 248 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự năm 2009 về Tội đánh bạc và mức phạt tiền như sau:

    "1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.”

    Thân!

  • Xem thêm     

    03/01/2013, 07:45:17 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Theo thông tin bạn cung cấp, tôi tư vấn như sau:

    Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Nếu trường hợp tước đoạt tính mạng của người khác không phải là do cố ý thì không phải là giết người.

    Theo quy định tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự về Tội giết người như sau: "1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Giết nhiều người;

    b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;

    c) Giết trẻ em;

    d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

    đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng  hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;

    g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;

    h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

    i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;

    k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;

    l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;

    m) Thuê giết người hoặc giết  người thuê;

    n) Có tính chất côn đồ;

    o) Có tổ chức;

    p) Tái phạm nguy hiểm;

    q) Vì động cơ đê hèn".

    Như vậy, người phạm tội đã điều khiển xe ô tô tông chết bố vợ bạn là thực hiện hành vi giết người theo quy định tại điểm l khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Bởi vì, người đó giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người tức là người phạm tội dùng phương pháp, cách thức, thủ đoạn với công cụ phương tiện gây ra hoặc có khả năng thực tế gây ra hậu quả làm hai người trở lên chết trong cùng một thời gian.

    Trong trường hợp có căn cứ cho rằng bố và chú ruột của bị can là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm với vai trò là những người giúp sức theo quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự thì là những người đồng phạm tội giết người.

    Thân!

  • Xem thêm     

    30/12/2012, 01:45:24 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    * Theo quy định tại Điều 49 Bộ Luật Hình sự về Tái phạm, tái phạm nguy hiểm như sau:

    "1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.

    2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:

    a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;

    b) Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý".

    * Theo quy định tại điểm p khoản 2 Điều 194 Bộ Luật Hình sự về Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy như sau:

    "2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    p) Tái phạm nguy hiểm".

    Như vậy, trường hợp cậu em nhà em lần này bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo theo điểm p khoản 2 Điều 194 Bộ Luật Hình sự.

    Thân!

  • Xem thêm     

    30/12/2012, 01:08:16 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào anh!

    Theo thông tin bạn cung cấp, tôi tư vấn như sau:

    Trường hợp của bạn là cho chú ruột ở nhờ, không phải là do chú bạn tự ý xâm phạm chỗ ở của công dân theo Điều 124 Bộ Luật Hình sự. Vì vậy, nếu có tranh chấp xảy ra thì đây là tranh chấp dân sự.

    Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình mình, ba bạn có thể khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết nếu đủ các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai: "Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết".

    Chúc thành công!

  • Xem thêm     

    29/12/2012, 09:56:16 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    * Theo quy định tại Điều 146 Bộ Luật hình sự về Tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ như sau:

    "Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm".

    * Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 112 Bộ Luật hình sự về Tội hiếp dâm trẻ em như sau:

    "1.  Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    3.  Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a)  Có tổ chức;

    b) Nhiều người hiếp một người;

    c) Phạm tội nhiều lần;

    d) Đối  với nhiều người;

    đ) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật  từ 61%trở lên;

    e) Biết mình bị nhiễm HIVmà vẫn phạm tội;

    g) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát".

    Trong trường hợp có căn cứ cho rằng mẹ của bạn em có hành vi cưỡng ép bạn em kết hôn trái với sự tự nguyện của họ hoặc người đàn ông đó đã có hành vi hiếp dâm bạn của em thì em nên khuyên cô ấy đến cơ quan điều tra công an cấp huyện để trình báo sự việc nêu trên để họ xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.
    Chúc thành công!

  • Xem thêm     

    04/10/2012, 10:43:30 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Về thủ tục xin cấp giấy xác nhận xóa án tích tôi đã tư vấn cho bạn rồi.

    Tôi không hiểu đơn vị tuyển dụng lao động nào yêu cầu bạn phải xin sơ yếu lý lịch có xác nhận của công an phường về tình trạnh tiền án, tiền sự hay án tích. Thẩm quyền xác nhận lý lịch loại này không thuộc thẩm quyền của công an phường. Tuy nhiên, tôi biết một số tổ chức tuyển dụng lao động có yêu cầu ứng viên nộp hồ sơ tuyển dụng có yêu cầu kèm theo Phiếu lý lịch tư pháp. Nếu bạn thuộc trường hợp này thì bạn nên đến Sở tư pháp cấp để xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

    Trường hợp bạn chưa thực hiện thủ tục xóa án tích thì Mục án tích trong Phiếu lý lịch tư pháp có nội dung: Chưa xóa án tích.

    Trường hợp bạn đã được cấp Giấy xác nhận xóa án tích thì Mục án tích trong Phiếu lý lịch tư pháp sẽ bỏ trống.

    Theo Điều 63 Bộ Luật hình sự quy định: "Người được xoá án tích coi như chưa bị kết án".

    Chúc bạn thành công!

  • Xem thêm     

    24/09/2012, 03:14:28 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    * Theo quy định tại Điều 248 Bộ Luật hình sự quy định về Tội đánh bạc:

    "1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tính chất chuyên nghiệp;

    b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên;

    c) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.”

    * Theo quy định tại Điều 40 Bộ Luật hình sự năm quy định về Tịch thu tài sản:

    "Tịch thu tài sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án sung quỹ nhà nước. Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng trong trường hợp do Bộ luật  này quy định.

    Khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện sinh sống".

    Như vậy, theo viện dẫn trên, áp dụng khung hình phạt nào tuỳ thuộc vào số tiền bạn dùng để tham gia đánh bạc. Tội đánh bạc không áp dụng hình phạt bổ sụng là "Tịch thu tài sản".

    Thân!

3 Trang <123>