Ký quỹ - biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định pháp luật hiện hành? (Phần 1)

Chủ đề   RSS   
  • #616483 18/09/2024

    minhpham1995
    Top 50
    Male
    Lớp 9

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:21/10/2017
    Tổng số bài viết (1446)
    Số điểm: 12229
    Cảm ơn: 9
    Được cảm ơn 211 lần


    Ký quỹ - biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định pháp luật hiện hành? (Phần 1)

    Quy định pháp luật dân sự về biện pháp ký quỹ? Đặc điểm của biện pháp ký quỹ với tư cách là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự?

    Khái niệm về ký quỹ?

    Khái niệm về ký quỹ được ghi nhận duy nhất tại một điều khoản trong Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể Điều 330 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định như sau:

    “Điều 330. Ký quỹ

    1. Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá vào tài khoản phong tỏa tại một tổ chức tín dụng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ.

    2. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên có quyền được tổ chức tín dụng nơi ký quỹ thanh toán, bồi thường thiệt hại do bên có nghĩa vụ gây ra, sau khi trừ chi phí dịch vụ.

    3. Thủ tục gửi và thanh toán thực hiện theo quy định của pháp luật”.

    Biện pháp bảo đảm ký quỹ lần đầu tiên xuất hiện trong Bộ luật Dân sự năm 1995, cùng với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự như ký cược và phạt vi phạm. Theo quy định tại Điều 330 Bộ luật Dân sự 2015, ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý, hoặc giấy tờ có giá vào tài khoản phong tỏa tại tổ chức tín dụng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ.

    Ký quỹ bao gồm ba bên: bên ký quỹ (bên có nghĩa vụ), bên nhận ký quỹ (bên có quyền), và tổ chức tín dụng (bên giữ tài sản ký quỹ). Bên ký quỹ phải chuyển giao tài sản vào tài khoản phong tỏa tại tổ chức tín dụng, nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Bên nhận ký quỹ có quyền yêu cầu tổ chức tín dụng thanh toán hoặc bồi thường thiệt hại do bên ký quỹ gây ra. Tổ chức tín dụng giữ vai trò trung gian, nắm giữ tài sản bảo đảm và thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho bên nhận ký quỹ theo thỏa thuận hoặc quy định pháp luật.

    Thông thường, bên nhận ký quỹ sẽ được xác định cụ thể. Tuy nhiên, ký quỹ cũng có thể thực hiện giữa bên ký quỹ và tổ chức tín dụng ngay cả khi bên nhận ký quỹ chưa được xác định. Ví dụ, theo Luật Du lịch năm 2017, doanh nghiệp kinh doanh lữ hành không cần vốn pháp định nhưng phải ký quỹ để đảm bảo trách nhiệm với khách du lịch. Nghị định số 168/2017/NĐ-CP quy định rằng nếu doanh nghiệp cần sử dụng tiền ký quỹ để giải quyết tình huống khẩn cấp, cơ quan cấp giấy phép lữ hành sẽ xem xét và yêu cầu ngân hàng trích tài khoản tiền ký quỹ nếu cần thiết.

    Ngoài việc là biện pháp bảo đảm theo thỏa thuận của các bên, ký quỹ cũng có thể được áp dụng như một biện pháp bảo đảm bắt buộc theo quy định pháp luật. Ví dụ, theo Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, các tổ chức và cá nhân thực hiện các hoạt động như khai thác khoáng sản, chôn lấp chất thải, hoặc nhập khẩu phế liệu từ nước ngoài phải thực hiện ký quỹ bảo vệ môi trường bằng tiền, kim khí quý, đá quý, hoặc giấy tờ có giá theo quy định pháp luật.

    Đặc điểm của biện pháp ký quỹ?

    Nếu so sánh với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự khác, biện pháp ký quỹ sẽ có các đặc điểm nổi bật sau đây:

    Tính chất đối vật: Ký quỹ là biện pháp bảo đảm mà quyền của bên nhận ký quỹ liên kết với tài sản ký quỹ được tổ chức tín dụng nắm giữ. Nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng, tổ chức tín dụng sẽ dùng tài sản ký quỹ để thanh toán hoặc bồi thường thiệt hại cho bên có quyền. Việc thanh toán chỉ giới hạn trong phạm vi tài sản ký quỹ sau khi trừ các chi phí dịch vụ. Tài sản ký quỹ, thường là tiền, thuộc về bên ký quỹ cho đến khi có cơ sở để thực hiện thanh toán hoặc bồi thường thiệt hại.

    Sự tham gia của tổ chức tín dụng: Tổ chức tín dụng giữ vai trò trung gian trong ký quỹ, đảm bảo sự thực hiện nghĩa vụ. Điều này làm cho ký quỹ khác biệt so với các biện pháp bảo đảm khác. Tuy nhiên, ký quỹ và đặt cọc thường bị nhầm lẫn, ví dụ như trong một số bản án, việc tiền được gọi là "ký quỹ" nhưng thực chất là đặt cọc hoặc biện pháp bảo đảm khác.

    So sánh với bảo lãnh và thế chấp: Ký quỹ khác với bảo lãnh vì bảo lãnh là biện pháp đối nhân, trong khi ký quỹ là biện pháp đối vật. Bảo lãnh yêu cầu tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ nếu cần, trong khi ký quỹ chỉ yêu cầu tổ chức tín dụng giữ tài sản và thực hiện thanh toán từ tài sản ký quỹ. Ký quỹ cũng có sự tương đồng với cầm cố tài sản, nhưng thay vì bên cầm cố giao tài sản cho bên nhận cầm cố, ký quỹ yêu cầu giao tài sản cho tổ chức tín dụng để giữ, làm tăng độ an toàn cho giao dịch.

    (Bài viết được tham khảo từ một số bài báo, công trình khoa học liên quan)

     
    119 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận