Theo quy định hiện nay, không đăng ký kết hôn nhưng sống chung với nhau như vợ chồng trước năm 1987 thì khi một người mất, người còn lại có được chia thừa kế?
Không ĐKKH nhưng sống chung như vợ chồng trước năm 1987 thì có được xem là vợ chồng?
Theo mục a phần 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 quy định:
Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình 2000;
Đồng thời, Mục 1 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP đã hướng dẫn cụ thể quy định trên như sau:
- Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 mà chưa đăng ký kết hôn, nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình 2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung.
- Cần chú ý là trong trường hợp sau khi quan hệ vợ chồng đã được xác lập họ mới thực hiện việc đăng ký kết hôn, thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn được công nhận kể từ ngày xác lập (ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng), chứ không phải là chỉ được công nhận kể từ ngày đăng ký kết hôn.
Như vậy, đối với các trường hợp sống chung như vợ chồng trước năm 1987 thì được khuyến khích đăng ký kết hôn chứ không bắt buộc. Theo đó, không đăng ký kết hôn nhưng sống chung như vợ chồng trước năm 1987 vẫn được xem là vợ chồng.
Đồng thời, dù họ có đăng ký kết hôn hay không thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn được công nhận kể từ ngày họ bắt đầu sống chung.
Không ĐKKH nhưng sống chung như vợ chồng trước năm 1987 thì có được hưởng thừa kế?
Theo Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người thừa kế theo pháp luật như sau:
- Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
+ Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
+ Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
+ Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
- Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
- Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Đồng thời, theo khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 quy định những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
- Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
- Con thành niên mà không có khả năng lao động.
Theo đó, nếu người mất không để lại di chúc thì sẽ chia theo pháp luật, vì vợ/chồng là hàng thừa kế thứ nhất nên sẽ là người được hưởng thừa kế, nếu người mất có để lại di chúc thì tài sản sẽ được chia theo di chúc và người vợ/chồng dù không có tên trong di chúc thì vẫn được chia ⅔ suất thừa kế.
Như vậy, dù không đăng ký kết hôn nhưng sống chung như vợ chồng trước năm 1987 thì vẫn được công nhận quan hệ vợ chồng. Do đó khi vợ/chồng mất thì người còn lại vẫn sẽ được hưởng thừa kế theo quy định.
Di sản sẽ được chia thế nào?
Theo Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng như sau:
- Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
- Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Theo Điều 66 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về việc giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết như sau:
- Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.
- Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Như vậy, tài sản được tạo lập trong quá trình sống chung như vợ chồng trước năm 1987 được xem là tài sản chung, theo đó khi chia thừa kế di sản của chồng/vợ mất thì phần tài sản chung này sẽ được chia đôi, di sản là một nửa tài sản chung. Phần di sản này sẽ được chia theo quy định về thừa kế.