Việc đăng ký kết hôn là thủ tục bắt buộc để cơ quan nhà nước công nhận tình trạng hôn nhân của hai bên nam nữ. Tại khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định việc kết hôn không có đăng ký thì không có giá trị pháp lý:
Điều 9. Đăng ký kết hôn
1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.
Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý.
|
Trong khi đó, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Như vậy, để được ly hôn thì phải có mối quan hệ vợ chồng tồn tại từ trước thì lúc đó hai bên mới có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Vậy trong trường hợp không đăng ký kết hôn thì giải quyết như thế nào?
Trong một số trường hợp, mặc dù chưa thực hiện việc đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng tòa án vẫn thụ lý yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân gia đình 2014:
Điều 53. Thụ lý đơn yêu cầu ly hôn
1.Tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
2.Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
|
Theo quy định trên, khi vợ chồng chưa đăng ký kết hôn nhưng lại muốn chấm dứt mối quan hệ này thì sẽ phải gửi đơn yêu cầu ly hôn để Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về giải quyết quan hệ hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Theo đó, các vấn đề về con chung và tài sản tùy từng trường hợp mà sẽ có những cách giải quyết khác nhau, cụ thể được quy định tại Điều 14, 15, 16 của Luật hôn nhân gia đình 2014 như sau:
Điều 14. Giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
1.Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
2.Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.
Điều 15. Quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con.
Điều 16. Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
|
Cập nhật bởi lanbkd ngày 11/02/2020 05:28:51 SA