Khiếu kiện vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất buộc phải giám đốc thẩm

Chủ đề   RSS   
  • #602895 30/05/2023

    nguyenhoaibao12061999
    Top 25
    Dân Luật bậc 1

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:03/08/2022
    Tổng số bài viết (2261)
    Số điểm: 78451
    Cảm ơn: 100
    Được cảm ơn 2003 lần


    Khiếu kiện vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất buộc phải giám đốc thẩm

    VKSND cấp cao tại Đà Nẵng nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn ông Lê Đình N, bà Nguyễn Thị S với bị đơn ông Nguyễn Duy P, bà Thủy Thị L của Tòa án nhân dân tỉnh Đ giải quyết tại Bản án phúc thẩm ngày 04/8/2022 có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm.
     
    khieu-kien-vu-an-tranh-chap-hop-dong-chuyen-nhuong-quyen-su-dung-dat
     
    Tóm tắt vụ án tranh chấp đất đai
     
    Ngày 27/02/2010, vợ chồng ông Nguyễn Duy P, bà Thủy Thị L ký “Giấy sang nhượng đất lô gia cư” cho vợ chồng ông Lê Đình N, bà Nguyễn Thị S. 
     
    Nội dung giấy sang nhượng thể hiện: bề ngang 10m, dài hết đất với số tiền 90 triệu đồng, đã đưa trước 60 triệu đồng, còn 30 triệu đồng sẽ giao khi làm xong bìa đỏ; cắt 10m bên ông Thiện và 100m2 đất nhà ở.
     
    Ông N, bà S cho rằng đã nhận bàn giao đất trên thực địa, có tứ cận cụ thể: quá trình sử dụng đất đã làm hàng rào và trồng cà phê trên phần đất của thửa số 08, còn phần đất của thửa số 07 (giáp đường) cho ông T mượn đất canh tác. Ông N, bà S khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông P và bà L thực hiện các thủ tục tách bìa, sang tên lô đất trên.
     
    Tuy nhiên, ông P, bà L cho rằng chỉ chuyển nhượng phần đất thuộc thửa đất số 08, không có thửa số 07 (tức đất không giáp mặt đường); nếu ông N không đồng ý thì vợ chồng Ông, Bà lấy lại đất và trả lại tiền cho ông N, bà S.
     
    Quá trình giải quyết vụ án tranh chấp đất đai
     
    (1) Bản án sơ thẩm của TAND huyện K.p, tỉnh Đ
     
    Chấp nhận yêu cầu khởi kiện và công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Nguyễn Duy P, bà Thuỷ Thị với ông Lê Đình N, QSDĐ hai bên ký hợp đồng chuyển nhượng có diện tích là 1.374,8m2, thuộc thửa đất số 07 và thửa đất số 08, theo Giấy chứng nhận QSDĐ cấp cho hộ ông P.
     
    Ông P và bà L phải có trách nhiệm thực hiện các thủ tục để ông Lê Đình N và bà Nguyễn Thị S được cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với phần đất nhận chuyển nhượng có diện tích 1.374,8m2, tại thửa đất số 07, 08 sau khi thực hiện xong nghĩa vụ tài chính về đất đai theo quy định của pháp luật. 
     
    Ông Lê Đình N và bà Nguyễn Thị S phải có trách nhiệm tiếp tục thanh toán cho ông Nguyễn Duy P và bà Thủy Thị L số tiền còn lại là 30 triệu đồng.
     
    (2) Bản án dân sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Đ
     
    Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Duy P, bà Thuỷ Thị L. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm 04/2022/DS-ST tuyên xử:
     
    Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Đình N và bà Nguyễn Thị S về việc công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ được xác lập ngày 27/02/2010 giữa ông Nguyễn Duy P, bà Thuỷ Thị L với ông Lê Đình N, quyền sử dụng đất hai bên ký hợp đồng chuyển nhượng có diện tích là 1.374,8m2, thuộc thửa đất số 07 và thửa đất số 08, đã được UBND huyện KP cấp cho hộ ông Nguyễn Duy ngày 13/9/2001.
     
    Ông Nguyễn Duy P và bà Thủy Thị L phải có trách nhiệm thực hiện các thủ tpc đê ông Lê Đình N và bà Nguyễn Thị S được cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với phần đất nhận chuyển nhượng có diện tích 1.374,8m2, tại thửa đất số 07, 08. Ông Lê Đình N và bà Nguyễn Thị S phải có trách nhiệm tiếp tục thanh toán cho ông Nguyễn Duy P và bà Thủy Thị L số tiền còn lại là 65.641.000 đồng.
     
    Rút kinh nghiệm vụ án tranh chấp đất đai 
     
    “Giấy sang nhượng đất lô gia cư” giữa vợ chồng ông P, bà L với ông N được lập thành văn bản nhưng không có công chứng, chứng thực là không đúng quy định của pháp luật. 
     
    Tuy nhiên, thực hiện hợp đồng, ông N, bà S đã trả 60 triệu đồng, còn lại 30 triệu đồng các bên thỏa thuận sẽ trả đủ khi làm xong thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
     
    Ông P, bà L đã giao đất và ông N, bà S đã nhận đất, quản lý, sử dụng từ năm 2010 đến nay. Do đó, bản án công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ là đúng với hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2004/NQ- HĐTP ngày 10/8/2004 và khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự 2015
     
    Tuy nhiên, Bản án lại buộc ông P, bà L “Phải có trách nhiệm thực hiện các thủ tục để ông Lê Đình N và bà Nguyễn Thị S được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ” là không đúng. 
     
    Trong trường hợp này phải xác định: ông N, bà S được quyền sử dụng diện tích đất đã nhận chuyển nhượng và được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền đế làm các thủ tục cấp Giấy chứng nhận QSDĐ.
     
    Đối với số tiền chuyển nhượng QSDĐ 30 triệu đồng mà ông N, bà S chưa trả cho ông P, bà L thì phải buộc ông N, bà S trả cho ông P, bà L số tiền còn thiếu theo giá thị trường của thửa đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm tương ứng với phần diện tích chưa trả tiền mới đúng. 
     
    - Bản án sơ thẩm buộc ông N, bà S phải có trách nhiệm tiếp tục thanh toán cho ông P, bà L số tiền 30 triệu đồng còn lại là không đúng.
     
    - Bản án phúc thẩm buộc ông N, bà S phải thanh toán cho ông P, bà L số tiền 30 triệu đồng còn lại và tiền lãi theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 đối với số tiền 30 triệu đồng cũng không đúng.
     
    Qua đó, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông P, bà L. 
     
    Trên đây là vi phạm của Tòa án nhân dân tỉnh Đ trong việc giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” bị cấp giám đốc thẩm hủy Bản án phúc thẩm, giao hồ sơ cho Toà án nhân dân tỉnh Đ để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. 
     
    Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng thông báo đến Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trong khu vực tham khảo và rút kinh nghiệm đế nâng cao chất lượng khi kiểm sát giải quyết vụ án dân sự tương tự.
     
    Thông báo rút kinh nghiệm: tải
     
    317 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận