Có không ít những vụ việc trẻ em bị xâm hại mà gia đình nạn nhân đưa ra lựa chọn thỏa hiệp, không tố cáo thủ phạm. Phần lớn lí do là vì sợ những định kiến xã hội, gia đình người bị hại cũng không muốn làm ầm ĩ vì sợ ảnh hưởng đến tương lai con trẻ.
(1) Trách nhiệm lên tiếng của gia đình, cha mẹ
T.T.H, 15 tuổi, đang là học sinh một trường trung học tại TP Hồ Chí Minh. Năm ngoái, gia đình đột nhiên phát hiện cô bé mang thai, đồng thời biết được “tác giả” bào thai là con trai một người hàng xóm. Ban đầu, gia đình có ý định tố cáo hành vi nói trên đến cơ quan chức năng, nhưng do gia đình thủ phạm van xin được tha thứ, đồng ý bồi thường số tiền lớn và chịu trách nhiệm, cộng với nỗi lo sự việc ồn ào, xấu hổ, nên gia đình bé H. đã quyết định im lặng, thoả thuận, âm thầm cho bé gái sinh con và chờ con đủ tuổi để gả con cho thủ phạm (nguồn baophapluat.vn).
Trên thực tế, có không ít trường hợp giống như H, nhiều gia đình vì sợ “điều tiếng” mà quyết định không tố giác, không dám làm ầm ĩ vì sợ xấu hổ.
Những định kiến xã hội về phẩm giá của người phụ nữ đã khiến cho người bị hại cũng không dám tố cáo, đôi khi còn chịu mặc cảm bản thân là người có lỗi.
Nhưng thực chất, hành động hòa giải của gia đình người bị hại có thể coi là hành vi vi phạm pháp luật, thiếu trách nhiệm khi che giấu tội phạm, không tố giác tội phạm, không nhận thức được mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm hại tình dục trẻ em.
Theo Điều 389 và 390 Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi tại khoản 137 và 138 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự 2017, tội che giấu tội phạm và không tố giác tội phạm sẽ bị xử lí như sau:
- Người nào không hứa hẹn trước mà che giấu một trong các tội phạm quy định tại Điều 389 Bộ Luật Hình sự 2015, nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 18 của Bộ Luật Hình sự 2015, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm (trong đó các tội về xâm hại trẻ em)
- Người nào biết rõ một trong các tội phạm được quy định tại Điều 389 Bộ Luật Hình sự 2015 đang được chuẩn bị, đang hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 19 của Bộ Luật Hình sự 2015, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Như vậy, cha, mẹ, gia đình của trẻ em bị xâm hại không chỉ là lên tiếng, tố giác tội phạm vì con mình mà phải hành động vì xã hội, làm đúng theo quy định của pháp luật để tránh hậu quả con mình bị xâm hại, mà mình cũng bị phạt.
(2) Tội xâm hại trẻ em bị phạt thế nào?
Theo quy định tại Điều 1 Luật trẻ em 2016, trẻ em là người dưới 16 tuổi.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP quy định:
Xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ người dưới 16 tuổi tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với người dưới 16 tuổi và sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức (ví dụ: hoạt động xâm hại tình dục được thực hiện do đồng thuận với người dưới 13 tuổi); do cưỡng bức, do hứa hẹn các lợi ích vật chất (tiền, tài sản) hay các lợi ích phi vật chất (ví dụ: cho điểm cao, đánh giá tốt, tạo cơ hội tiến bộ...).
Theo đó, tại Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự 2017 có quy định trách nhiệm hình sự đối với 05 tội phạm xâm hại tình dục trẻ em, cụ thể:
1. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
Căn cứ theo Điều 142 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự 2017
- Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
+ Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ;
+ Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
+ Có tính chất loạn luân;
+ Làm nạn nhân có thai;
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%;
+ Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
+ Phạm tội 02 lần trở lên;
+ Đối với 02 người trở lên;
+ Tái phạm nguy hiểm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
+ Có tổ chức;
+ Nhiều người hiếp một người;
+ Phạm tội đối với người dưới 10 tuổi;
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;
+ Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
+ Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
- Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
2. Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
Căn cứ theo Điều 144 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự 2017 quy định:
- Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
+ Có tính chất loạn luân;
+ Làm nạn nhân có thai;
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%;
+ Phạm tội 02 lần trở lên;
+ Đối với 02 người trở lên;
+ Tái phạm nguy hiểm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
+ Nhiều người cưỡng dâm một người;
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;
+ Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
+ Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
- Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
3. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
Căn cứ theo Điều 145 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự 2017 quy định:
- Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật Hình sự 2015, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
+ Phạm tội 02 lần trở lên;
+ Đối với 02 người trở lên;
+ Có tính chất loạn luân;
+ Làm nạn nhân có thai;
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
+ Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
+ Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.
- Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
Căn cứ theo Điều 146
- Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
+ Phạm tội có tổ chức;
+ Phạm tội 02 lần trở lên;
+ Đối với 02 người trở lên;
+ Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%;
+ Tái phạm nguy hiểm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;
+ Làm nạn nhân tự sát.
- Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
5. Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm
Căn cứ theo Điều 147 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự 2017 quy định:
- Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi trình diễn khiêu dâm hoặc trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm dưới mọi hình thức, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
+ Phạm tội có tổ chức;
+ Phạm tội 02 lần trở lên;
+ Đối với 02 người trở lên;
+ Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
+ Có mục đích thương mại;
+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%;
+ Tái phạm nguy hiểm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;
+ Làm nạn nhân tự sát.
- Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
(3) Kết luận
Tội phạm càng lúc càng nhiều mưu mô, xảo quyệt hơn, rất khó để đề phòng nếu như đó là người chú, người anh, hay người hàng xóm thân thiết. Và trẻ em, những búp măng còn ngây thơ sẽ rất dễ bị các kẻ xấu này lợi dụng.
Hành vi xâm phạm tình dục trẻ em không chỉ là đụng chạm cơ thể, hay thực hiện hành vi dâm ô, đồi bại, mà xâm phạm còn qua tư tưởng, sách báo. Cha mẹ hãy để tâm đến con cái của mình, để ý những bất thường để kịp thời bảo vệ sự ngây thơ cùa con.
Cha mẹ, gia đình của những trẻ em bị xâm hại, hãy bỏ ngoài tai những định kiến, đứng lên giành lại công bằng, trừng trị những kẻ làm hại con em mình. Bên cạnh đó, hãy an ủi, động viên, giúp tinh thần của những trẻ em là nạn nhân của việc xâm hại được bình ổn trở lại, tránh các sự việc đáng tiếc do nghĩ quẩn xảy ra.