Theo khoản 1 Điều 119 của Bộ Luật Dân sự thì việc giao dịch dân sự sẽ được thực hiện bằng lời nói.
Một giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện tại khoản 1 Điều 117 của Bộ Luật Dân sự năm 2015:
Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Như vậy, trong trường hợp bạn đã đồng ý với các thỏa thuận trên bằng lời nói thì hợp đồng đó được xác lập ngay tại thời điểm đó và bạn phải làm theo các nội dung đã được giao dịch trước đó chứ không nhất thiết hợp đồng phải là một văn bản cụ thể.
Tuy nhiên, nếu giao dịch dân sự không có một trong những điều kiện tại Điều 117 thì nó được xem là giao dịch dân sự vô hiệu. Giao dịch dân sự vô hiệu được chia ra nhiều trường hợp khác nhau như bị đe dọa, nhầm lẫn, giả tạo,…(theo Điều 123 đến Điều 130 của Bộ Luật Dân sự)
Và hậu quả pháp lý của một giao dịch dân sự vô hiệu đã được quy định tại Điều 131 của Bộ Luật này:
Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.