Theo quy định tại Bộ Luật lao động 2012, người sử dụng lao động được xem là đơn phương chấm dứt HĐ đúng pháp luật khi đáp ứng đầy đủ 2 điều kiện sau:
+ Lý do chấm dứt đúng pháp luật (khoản 1 Điều 38)
+ Thông báo đúng thời hạn
Theo như anh cung cấp là bên anh có lý do chính đáng (đúng luật) nhưng thời hạn thông báo lại không đủ, do đó, thiếu 1 trong 2 điều kiện nên vẫn bị xem là đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật.
Theo đó, công ty có nghĩa vụ theo Điều 42 Bộ Luật lao động 2012:
- Phải nhận người lao động trở lại làm việc và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
- Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
- Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.
=> Công ty phải nhận lại NLĐ, nếu không nhận lại thì phải bồi thường theo khoản 3 và khoản 5 nêu trên.
Cụ thể gồm các khoản sau:
+ Tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động (quy định ở khoản 1)
+ Trợ cấp thôi việc theo Điều 48 (nếu có)
+ 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động
+ Một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước
=> Tóm lại là bồi thường hơn 4 tháng tiền lương.