Đòi tiền bồi thường đất

Chủ đề   RSS   
  • #516092 30/03/2019

    minhhung456
    Top 500
    Lớp 4

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:29/01/2019
    Tổng số bài viết (180)
    Số điểm: 5025
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 56 lần


    Đòi tiền bồi thường đất

    Chào Luật sư,
    Tôi xin trình bày sự việc như sau :
    Đất của tôi thuộc diện được bồi thường để thực hiện dự án điện mặt trời AMI, tại xã Cam An Nam, Cam Lâm, Khánh Hòa.
    Sau khi niêm yết và bồi thường đất xong, tôi mới phát hiện ra đất của tội bị bồi thường thiếu. Tôi đã đưa đơn trình bày lên ủy ban xã, thì biết đất của tôi bị nhầm lần với 2 người trong địa phương. Thì 1 người đã trả lại tiền cho gia đình tôi, còn 1 người biết nhầm nhưng cương quyết không trả .
    Đất này là đất tôi khai phá từ 1987, từ sau khi đi nghĩa vụ quốc tế về canh tác từ 1990 đến nay không hề có ai tranh chấp . Vì đất hố nên chưa có giấy sử dụng đất.
    Sau 4 lần giải quyết ở xã ( gần 2 tháng ) đến nay ông ta đã thừa nhận không phải đất của ông và đưa lại số tiền bồi thường ( 98 triệu đồng)  cho Uỷ ban Xã.
    Nhưng Uỷ ban xã lại trả lời đơn đất là của hợp tác xã và giữ số tiền đó không trả cho tôi . ( Mặc khác trong 3 lần giải quyết trước đều vận động để trả tiền cho tôi - có ghi âm quá trình giải quyết ) .
    Vậy, Cho tôi hỏi bây giờ tôi cần làm gì để có thể đòi lại công bằng ?
    Mong nhận được phản hồi từ Luật sư, tôi xin chân thành cảm ơn !

     
    2131 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #516095   30/03/2019

    Lunakhung123
    Lunakhung123
    Top 500
    Female
    Lớp 1

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2016
    Tổng số bài viết (297)
    Số điểm: 2489
    Cảm ơn: 11
    Được cảm ơn 68 lần


    Theo quy định tại Điều 101 Luật đất đai 2013 về điều kiện cấp GCNQSD đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất như sau:
    "Điều 101. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất
    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này, có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.”
    Theo quy định tại Khoản 4 Điều 22 Nghị định 43/2014/NĐ-CP
    "Điều 22. Việc xử lý, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có vi phạm pháp luật đất đai trước ngày 01 tháng 7 năm 2014
    ...
    4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp do tự khai hoang mà đất đó phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền duyệt, không có tranh chấp thì được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất theo hạn mức do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định; nếu vượt hạn mức do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định thì diện tích vượt hạn mức phải chuyển sang thuê."
    Theo các quy định trên thì chị đã đủ điều kiện cấp GCNQSDĐ, được công nhận là chủ sở hữu đối với quyền sử dụng đất này. Do đó, UBND xã trả lời đơn đất là của hợp tác xã và giữ số tiền đó là không hợp lý.
    Do vậy, chị có thể nộp đơn khiếu nại lên UBND huyện vè hành vi sai phạm này của UBND xã để được giải quyết.

     
    Báo quản trị |  
  • #527161   31/08/2019

    Trong trường hợp này, Nhà nước tiến hành việc thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân nhằm thực hiện dự án phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Khi tiến hành thu hồi đất của người dân, Nhà nước có trách nhiệm phải bồi thường và đền bù cho người dân Điều 74 Luật đất đai 2013  

    “1. Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường.

    2. Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.

    3. Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật”.

     Khoản 2, Điều 42 Luật đất đai 2013 quy định như sau:

    “2. Người bị thu hồi loại đất nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi”.

    Điều 93 Luật đất đai 2013 quy định:

    Điều 93. Chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư 

    1. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực thi hành, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường phải chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi.

    2. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường chậm chi trả thì khi thanh toán tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi, ngoài tiền bồi thường, hỗ trợ theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì người có đất thu hồi còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật quản lý thuế tính trên số tiền chậm trả và thời gian chậm trả.

    4. Người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật thì phải trừ đi khoản tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi thường để hoàn trả ngân sách nhà nước.

    5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này”.

    Như vậy, việc bồi thường khi thu hồi đất là nghĩa vụ bắt buộc của Nhà nước. Trường hợp của bạn, vì là đất nông nghiệp, trên đất có tài sản gắn liền với đất là cây trồng, nên còn được bồi thường thiệt hại về tài sản là cây trồng, với tổng số tiền được bồi thường là 899.000.000 vnđ. Vì gia đình bạn đã đồng ý ký vào giấy đền bù, hoàn tất các thủ tục và thực hiện nghĩa vụ tài chính, nên gia đình bạn sẽ được nhận một khoản tiền bồi thường và đền bù theo đúng quy định của pháp luật. Việc dự án không được thực hiện là do quyết định từ phía Nhà nước, nhưng không ảnh hưởng đến việc nhận bồi thường và đền bù của gia đình bạn, do thời điểm giải tỏa thì đã có quyết định thu hồi đất và có phương án bồi thường, hơn nữa, gia đình bạn đã hoàn tất các thủ tục để nhận bồi thường. Lẽ ra, sau 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực thi hành thì gia đình bạn đã phải nhận được tiền bồi thường. Nhưng cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường đã chậm chi trả số tiền bồi thường cho gia đình bạn tới tận 5 năm nên kèm theo đó, họ phải thanh toán thêm cho gia đình bạn một khoản tiền chậm trả theo quy định của Luật quản lý thuế. Bạn hoàn toàn có quyền yêu cầu hoặc khiếu nại đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền, là ủy ban nhân dân cấp tỉnh đòi bồi thường hoặc khởi kiện ra Tòa án.

     
    Báo quản trị |