Số hiệu
|
48/2007/KDTM-PT
|
Tiêu đề
|
Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng kiện Công ty xây dựng và ứng dụng công nghệ mới hợp đồng cho thuê thiết bị xe ben, đào đất
|
Ngày ban hành
|
28/05/2007
|
Cấp xét xử
|
Phúc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Kinh tế
|
Bác đơn kháng cáo của Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng. Chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty xây dựng và ứng dụng công nghệ mới và sửa một phần quyết định của bản án sơ thẩm
Bản án số:48/2007/KDTM-PT Ngày 28 tháng 5 năm 2007
Về việc: “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ”
Nguyên đơn: Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng,
Bị đơn: Công ty xây dựng và ứng dụng Công Nghệ Mới
NHẬN THẤY
Nguyên đơn Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng trình bày: Năm 2004 nguyên đơn và bị đơn Công ty xây dựng và ứng dụng Công Nghệ Mới có ký các hợp đồng như sau:
Hợp đồng số 01/HĐKT ngày 28/02/2004 có nội dung: Nguyên đơn cho bị đơn thuê mướn thiết bị cơ giới (xe Ben và xe cuốc).
Hợp đồng số 02/HĐKT ngày 10/03/2004 có nội dung: Nguyên đơn thực hiện việc đào đất kinh thượng hạ lưu âu tàu tắc thủ Cà Mau cho bị đơn.
Thực hiện hợp đồng số 01/HĐKT nguyên đơn đã giao đầy đủ cho bị đơn thiết bị cơ giới.
Ngày 17/9/2004, hai bên lập biên bản thanh lý thì nguyên đơn viết phiếu thu 75.000.000đ và hoá đơn giá trị gia tăng cho bị đơn và giao cho bị đơn, nhưng bị đơn chưa giao tiền nên nên hai bên có việc cự cãi nhau trong việc thanh toán hợp đồng nên nguyên đơn giật lại hoá đơn giá trị gia tăng còn phiếu thu chưa giật lại. Nguyên đơn kiện bị đơn đòi lại số tiền còn thiếu 75.000.000đ và tiền lãi do việc chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán từ tháng 11/2004 đến nay là 25 tháng với mức lãi suất nợ quá hạn theo quy định là 1,03%/tháng số tiền lãi sẽ là 75.000.000đ x 1,03%/tháng x 25 tháng = 19.312.500đ, tổng cộng nợ và lãi là 94.312.500đ.
Riêng hợp đồng số 02/HĐKT bị đơn còn thiếu nguyên đơn 60.990.000đ, nguyên đơn kiện bị đơn đòi số tiền này và tiền lãi do việc chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán từ tháng 11/2004 đến nay là 25 tháng với mức lãi suất nợ quá hạn theo quy định là 1,03%/tháng số tiền lãi sẽ là 60.990.000đ x 1,03%/tháng x 25 tháng = 15.706.213đ, tổng cộng nợ và lãi là 76.701.213đ.
Bị đơn Công ty xây dựng và ứng dụng Công Nghệ Mới trình bày: Xác nhận có ký hợp đồng số 01/HĐKT thuê mướn thiết bị và Hợp đồng số 02/HĐKT ngày 10/03/2004 thực hiện việc đào đất kinh thượng hạ lưu âu tàu tắc thủ Cà Mau cùng nguyên đơn Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng, có ký biên bản thanh lý ngày 17/9/2004. Sau khi ký biên bản thanh lý hợp đồng số 01/HĐKT bị đơn đã trả cho nguyên đơn 75.000.000đ, nên nguyên đơn đã viết phiếu thu cho bị đơn coi như hợp đồng số 01/HĐKT bị đơn đã thanh lý xong cùng nguyên đơn. Nhưng nguyên đơn chưa giao hoá đơn giá trị gia tăng cho bị đơn, nay bị đơn đề nghị nguyên đơn giao hoá đơn giá trị gia tăng cho bị đơn.
Riêng hợp đồng số 02/HĐKT bị đơn xác nhận còn thiếu nguyên đơn 60.990.000đ và đồng ý trả số tiền này cùng số tiền lãi theo quy định là 15.706.213đ, tổng cộng là 76.701.213đ cho nguyên đơn.
Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số675/2006/KDTM-ST ngày 29/12/2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự; điều 233 Luật thương mại năm 1997.
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng:
1/ Bác yêu cầu của nguyên đơn Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng kiện bị đơn Công ty xây dựng và ứng dụng Công Nghệ Mới đòi lại số tiền còn thiếu 75.000.000đ theo hợp đồng số 01/HĐKT ngày 28/02/2004 và tiền lãi do việc chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán 19.312.500đ, tổng cộng là 94.312.500đ. Đồng thời phải xuất hoá đơn giá trị gia tăng của hợp đồng số 01/HĐKT ngày 28/02/2004 cho bị đơn Công ty xây dựng và ứng dụng Công Nghệ Mới.
2/ Bị đơn Công ty xây dựng và ứng dụng Công Nghệ Mới có trách nhiệm thanh toán cho nguyên đơn Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng số tiền nợ đào đất còn thiếu theo hợp đồng số 02/HĐKT ngày 10/03/2004, và tiền lãi do việc chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán từ tháng 11/2004 đến nay là 76.701.213đ, trong đó có tiền nợ là 60.995.000đ và tiền lãi là 15.706.213đ.
Đồng thời nguyên đơn Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng phải xuất hoá đơn giá trị gia tăng của hợp đồng số 02/HĐKT ngày 10/03/2004 cho bị đơn Công ty xây dựng và ứng dụng Công Nghệ Mới.
Kể từ ngày nguyên đơn Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng có đơn yêu cầu thi hành án nếu bị đơn Công ty xây dựng và ứng dụng Công Nghệ Mới không trả đủ số tiền nêu trên thì hàng tháng bị đơn còn phải trả cho nguyên đơn số tiền lãi tính theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 08/01/2007, bị đơn Công ty xây dựng và ứng dụng Công Nghệ Mới làm đơn kháng cáo yêu cầu: Buộc Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng xuất hoá đơn VAT 189.000.000đ; Buộc Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng xuất hoá đơn VAT hợp đồng số 02; không chấp nhận việc Công ty xây dựng và ứng dụng Công Nghệ Mới chịu lãi suất ngân hàng tại hợp đồng số 02.
Ngày 12/01/2007, nguyên đơn Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng làm đơn kháng cáo yêu cầu bị đơn Công ty xây dựng và ứng dụng Công Nghệ Mới trả hết cho nguyên đơn số nợ 75.000.000đ của hợp đồng số 01, cộng với lãi suất theo luật định tính từ ngày 17/9/2004.
Tại phiên toà các bên đương sự không thay đổi nội dung khởi kiện, nội dung kháng cáo. Không cung cấp thêm chứng cứ mới.
- Sau khi nghe các bên đương sự trình bày, nghe Luật sư hai bên phát biểu bảo vệ quyền lợi cho các bên đương sự.
- Sau khi nghe các bên đương sự tranh luận.
Xét thấy
Yêu cầu của nguyên đơn ông Nguyễn Đức Thượng đòi bị đơn Công ty xây dựng và ứng dụng công nghệ mới phải trả 75.000.000đ (Bảy mươi lăm triệu đồng) của hợp đồng số 1, cộng lãi xuất tính từ ngày 17/9/2004. Nguyên đơn cho rằng đã viết phiếu thu 75.000.000đ và hóa đơn VAT giao cho bị đơn. Nhưng bị đơn không nộp tiền, nên nguyên đơn lấy lại được hoá đơn VAT, còn phiếu thu bị đơn không trả lại. Phía bị đơn ông Chức không đồng ý trả 75.000.000đ như yêu cầu của nguyên đơn cho rằng ông đã trả đủ 75.000.000đ cho nguyên đơn bằng tiền mặt, có khấu trừ một số tiền tạm ứng trước đó. Sau khi đối chiếu còn lại 75.000.000đ ông đã trả đủ và nhận phiếu thu từ nguyên đơn (đã viết phiếu thu) còn chưa đưa hóa đơn VAT cho Công ty xây dựng cung ứng Công nghệ cao.
Xét thấy nguyên đơn không đưa ra được bằng chứng gì bác bỏ phiếu thu 75.000.000đ. Trong đó đã ghi rõ “nhận đủ tiền và ký nhận và đóng dấu. Không có dấu hiệu giành giựt phiếu thu và hóa đơn VAT như phía ông Thượng trình bày. Bản án sơ thẩm đã bác yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở. Đồng thời phía nguyên đơn phải xuất hóa đơn giá trị gia tăng của hợp đồng số 01/HĐKT ngày 28/02/2004 cho Công ty xây dựng và ứng dụng Công nghệ mới là thỏa đáng. Tuy nhiên bản án sơ thẩm không ghi rõ số tiền trên hóa đơn VAT là 189.000.000 đồng là thiếu sót, phía bị đơn kháng cáo yêu cầu nêu rõ là cần thiết, nghĩ nên cải sửa lại cho chính xác. Xét kháng cáo của ông Thượng nêu ra tiếp tục yêu cầu phía bị đơn phải trả 75.000.000đ nhưng cũng không nêu được chứng cứ gì mới để xem xét. Nghĩ nên bác đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Đức Thượng và giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm.
Xét bản án sơ thẩm buộc Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng phải xuất hóa đơn giá trị gia tăng (VAT) của hóa đơn số 02/HĐKT ngày 10/03/2004 của Công ty xây dựng và ứng dụng công nghệ mới. Điều này các bên đương sự đã thỏa thuận. Bản án sơ thẩm đã xem xét đúng nghĩ nên giữ y án sơ thẩm.
Xét kháng cáo của Công ty xây dựng và ứng dụng công nghệ mới yêu cầu Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng xuất hóa đơn VAT trên số 189.000.000đ, không phải trên Hợp đồng số01/HĐKT- ngày 28/2/2004 chung chung, mà phải ghi rõ hóa đơn giá trị gia tăng của hợp đồng số 01 bằng số tiền 189.000.000đ như các bên đã công nhận và Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng cũng đồng thừa nhận hoá đơn giá trị gia tăng của hợp đồng kinh tế số 01 là 189.000.000đ như yêu cầu của Công ty xây dựng và ứng dụng Công nghệ mới. Nghĩ nên chấp nhận kháng cáo sửa một phần quyết định của bản án sơ thẩm.
Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm, không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Bởi lẽ trên, căn cứ điều 275 Bộ luật tố tụng dân sự.
QUYẾT ĐỊNH
Bác đơn kháng cáo của Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng. Chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty xây dựng và ứng dụng công nghệ mới và sửa một phần quyết định của bản án sơ thẩm:
Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng:
1/ Bác yêu cầu của nguyên đơn Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng kiện bị đơn Công ty xây dựng và ứng dụng Công Nghệ Mới đòi lại số tiền còn thiếu 75.000.000đ (Bảy mươi lăm triệu đồng) theo hợp đồng số 01/HĐKT ngày 28/02/2004 và tiền lãi do việc chậm trả là 19.312.500đ. Đồng thời phải xuất hoá đơn giá trị gia tăng của hợp đồng số 01/HĐKT ngày 28/02/2004 cho bị đơn Công ty xây dựng và ứng dụng Công Nghệ Mới trên số tiền 189.000.000đ (Một trăm tám mươi chín triệu đồng).
2/ Bị đơn Công ty xây dựng và ứng dụng Công Nghệ Mới có trách nhiệm thanh toán cho nguyên đơn Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng số tiền nợ đào đất còn thiếu theo hợp đồng số 02/HĐKT ngày 10/03/2004, và tiền lãi do việc chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Tổng cộng là 76.701.213đ (Bảy mươi sáu triệu bảy trăm lẻ một ngàn, hai trăm mười ba đồng), (trong đó tiền nợ là 60.995.000đ và lãi là 15.706.213đ).
Đồng thời nguyên đơn Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng phải xuất hoá đơn VAT của hợp đồng số 02/HĐKT ngày 10/03/2004 cho bị đơn Công ty xây dựng và ứng dụng Công Nghệ Mới.
Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
An phí kinh doanh thương mại phúc thẩm:
- Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Đức Thượng nộp 200.000 đồng.
- Công ty xây dựng và ứng dụng Công nghệ mới không phải nộp 200.000 đồng.
Hoàn dự phí kháng cáo cho Công ty xây dựng ứng dụng Công nghệ mới (phiếu tạm thu số 003996 ngày 12/01/2007).
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày tuyên án./.
Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 24/05/2013 08:26:08 SA