DNTN Sản xuất gia công bao bì giấy Mai Phát kiện đòi Công ty TNHH Sản xuất Văn phòng phẩm và Thương mại Hán Sơn thanh toán tiền gia công

Chủ đề   RSS   
  • #263339 23/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    DNTN Sản xuất gia công bao bì giấy Mai Phát kiện đòi Công ty TNHH Sản xuất Văn phòng phẩm và Thương mại Hán Sơn thanh toán tiền gia công

    Số hiệu

    1686/2007/KDTM-ST

    Tiêu đề

    DNTN Sản xuất gia công bao bì giấy Mai Phát kiện đòi Công ty TNHH Sản xuất Văn phòng phẩm và Thương mại Hán Sơn thanh toán tiền gia công

    Ngày ban hành

    14/09/2007

    Cấp xét sử

    Sơ thẩm

    Lĩnh vực

    Kinh tế

     

    Căn cứ vào các đơn đặt hàng trong thời gian từ tháng 5/2005 đến tháng 9/2006 và công văn xác nhận công nợ ; bảng đối chiếu nợ khách hàng do ông Hà Hán Mến – Phó tổng giám đốc Công ty ký và đóng dấu mộc của Công ty có cơ sở để xác định Công ty TNHH SX VPP-TM Hán Sơn đã đặt hàng với DNTN bao bì giấy Mai Phát và còn nợ số tiền gia công chưa thanh toán.

    Hội đồng xét xử đã chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc Công ty TNHH Sản xuất Văn phòng phẩm và Thương mại Hán Sơn gồm các thành viên là ông Hà Hán Mến (Trương hán Mến), bà Trương Ngọc Châu, bà Khưu Mỹ Dung và các con là Hà Tuấn Hưng; Hà Tuấn Phong và Hà Khánh Gia có trách nhiệm thanh toán số nợ là 400.637.371 đồng cho Ông Mai Thanh Hoàng – Chủ DNTN Sản xuất gia công bao bì giấy Mai Phát phát sinh từ việc đặt hàng gia công

    Bản án số1686/2007/KDTM-ST Ngày : 14 / 9/ 2007

    V/v” tranh chấp hợp đồng gia công”

    Trong ngày 14 tháng 9 năm 2007 tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số359/2007/TLST-KDTM ngày 14 tháng 06 năm 2007 tranh chấp “về hợp đồng gia công“theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số1429/2007/QĐST-KDTM ngày 01 tháng 08 năm 2007 giữa các đương sự :

    Nguyên đơn : Ông Mai Thanh Hoàng – Chủ DNTN SX Gia công bao bì Mai Phát

    Địa chỉ 619 Huỳnh Tấn Phát, P.Tân Thuận Đông Quận 7
    Đại diện ủy quyền : Ông Trương Thế Minh

    Địa chỉ cư trú : 94/19 Hồ văn Tư, KP2, P. Trường Thọ, Q.Thủ Đức

    (Văn bản uỷ quyền ngày 04/7/2007).

    Bị đơn : Công ty TNHH SX-VPP Thương mại Hán Sơn

    Địa chỉ 1A116 Hương lộ 80 xã Phạm văn Hai, Huyện Bình Chánh

    Đại diện trước pháp luật : Ông Hà Hán Tuyên – Giám đốc – Chết năm 2006

    Thừa kế theo pháp luật của ông Tuyên :

    Mẹ : Bà Trương Ngọc Châu – sinh 1929

    Đại diện uỷ quyền : Ông Hà Hán Mến

    Địa chỉ cư trú : 1545/3 đường 3/2, P.16 Quận 11

    (Văn bản uỷ quyền ngày 31/7/2007)

    Vợ : Bà Khưu Mỹ Dung – sinh 1964

    Các con là : Hà Tuấn Phong – sinh 1990; Hà Khánh Gia – sinh 1994 (có bà Khưu Mỹ Dung là người giám hộ)

    Hà Túân Hưng- sinh 1988 – Đại diện uỷ quyền : Bà Khưu Mỹ Dung

    Cùng ngụ tại số 1549/21 đường 3/2 P.16 quận .11

    (Văn bản uỷ quyền ngày 06/8/2007).

    Thành viên công ty : Ông Hà Hán Mến (Trương Hán Mến)

    Địa chỉ cư trú : 1545/3 đường 3/2, P.16 Quận 11.

    Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Mến: Luật sư Lê Hiếu Liêm ( Văn phòng Luật sư Lê Hiếu Liêm thuộc Đoàn Luật sư TP.Hồ chí Minh )

    NHẬN THẤY

    Trong đơn khởi kiện nộp ngày 18 tháng 05 năm 2007 nguyên đơn là Ông Mai Thanh Hoàng – Chủ DNTN SX Gia công bao bì Mai Phát và các lời khai tiếp theo của ông Trương Thế Minh là đại diện uỷ quyền của nguyên đơn trình bày : Từ tháng 5/2005 đến ngày 5/10/2006 Công ty TNHH SX VPP và TM Hán Sơn đặt hàng gia công nhãn, hộp sáp, hộp bút dạ kim, nhãn hộp bút, hộp bút lông kim với nguyên đơn, quá trình giao dịch bị đơn còn nợ chưa thanh toán là 400.637.371 đồng, sau đó, nguyên đơn đã yêu cầu đòi nợ tuy nhiên do ông Hà Hán Tuyên – đại diện trước pháp luật của Công ty TNHH SX VPP và TM Hán Sơn chết vào tháng 8/2006 nên số nợ được ông Hà Hán Mến là thành viên còn lại của Công ty xác nhận công nợ và cam kết trả dần số nợ trên. Tuy nhiên, do đến nay bị đơn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ gây thiệt hại đến quyền lợi của nguyên đơn, vì vậy, nguyên đơn yêu cầu thành viên còn lại của Công ty và những người thừa kế theo pháp luật của ông Tuyên phải có trách nhiệm thanh toán toàn bộ số nợ trên trong thời hạn sớm nhất.

    Tại văn bản tự khai ngày 09/7/2008 của bị đơn là ông Hà Hán mến (Trương Hán Mến ) là thành viên còn lại của Công ty TNHH SX VPP và TM Hán Sơn thì Công ty này được thành lập với 2 thành viên gồm có ông và ông Hà Hán Tuyên – là anh ruột của ông – Từ khi thành lập cho đến khi ông Tuyên chết là ngày 15/8/2006, mọi hoạt động kinh doanh của Công ty đều do ông Tuyên quản lý, điều hành. Tháng 6/2006 do bệnh nặng nên ông Tuyên có uỷ quyền cho ông điều hành Công ty. Sau khi ông Tuyên mất, do các thừa kế của ông Tuyên không đồng ý trở thành thành viên của Công ty nên hiện nay Công ty vẫn chưa cử người đại diện trước pháp luật của Công ty. Đối với số nợ của Công ty còn thiếu nguyên đơn là đúng, đồng ý thanh toán trong thời hạn 1 tháng sau khi quyết định hoặc bản án của Toà án có hiệu lực pháp luật và yêu cầu không tính lãi ngay cả trong thời gian thi hành án.

    Tại văn bản tự khai ngày 01/8/2007 của bị đơn là bà Trương Ngọc Châu là mẹ ông Hà Hán Tuyên – uỷ quyền cho ông Hà Hán Mến đại diện xác nhận cha ông Tuyên là Hà Tòng – chết năm 1989, ông Tuyên có vợ là bà Khưu Mỹ Dung và có 3 con chung tên Hà Tuấn Hưng, hà Tuấn Phong và Hà Khánh Gia, không có con nuôi. Ngày 15/8/2006 ông Tuyên chết, không để lại di chúc, bà Châu là một trong những người thừa kế theo pháp luật của ông Tuyên. Đối với khoản nợ của Công ty TNHH SX VPP TM Hán Sơn bà Châu không biết vì mọi việc điều hành công ty đều do ông Tuyên thực hiện. Nay nguyên đơn xuất trình các chứng cứ liên quan số nợ 400.637.371 đồng thì bà công nhận và đồng ý thanh lý những tài sản còn lại của công ty để trả nợ.

    Tại văn bản tự khai ngày 01/8/2007 của bị đơn là bà Khưu Mỹ Dung và văn bản tự khai của anh Hà Tuấn Hưng ngày 13/8/2007 – có bà Khưu Mỹ Dung- đại diện uỷ quyền xác nhận ông Hà Hán Tuyên và bà Dung là vợ chồng hợp pháp, đăng ký kết hôn năm 1987, có 3 con chung tên Hà Tuấn Hưng – sinh 1988 ; Hà Tuấn Phong – sinh 1990 và Hà Khánh Gia – sinh 1994. Tháng 8/2006, ông Tuyên chết không để lại di chúc. Công ty TNHH SX VPP-TM Hán Sơn là Công ty gia đình do chồng bà và em chồng là ông Hà Hán Mến thành lập và cùng điều hành Công ty. Bản thân bà Dung chỉ là người nội trợ, không tham gia việc sản xuất kinh doanh, đến khi ông Tuyên chết thì mọi hoạt động của Công ty do ông Mến quản lý điều hành. Đối với số nợ của nguyên đơn để Công ty kiểm toán và xác nhận công nợ trước khi giải quyết vụ việc này, vì vậy bà chưa chấp nhận theo yêu cầu đòi nợ của nguyên đơn.

    XÉT THẤY

    Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa và căn cứ vào kết qủa hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :

    Về tố tụng : Xét, bị đơn là bà Khưu Mỹ Dung và anh Hà Tuấn Hưng uỷ quyền cho bà Dung đại diện có đơn yêu cầu vắng mặt xét xử, vì vậy căn cứ vào khoản 1 điều 202 Bộ luật tố tụng dân sự HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt đương sự trên.

    Về nội dung : Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc đòi bị đơn là Công ty TNHH SX VPP-TM Hán Sơn thanh toán tiền nợ còn thiếu là 400.637.371 đồng.

    Xét, căn cứ vào các đơn đặt hàng trong thời gian từ tháng 5/2005 đến tháng 9/2006 và công văn xác nhận công nợ ; bảng đối chiếu nợ khách hàng do ông Hà Hán Mến – Phó tổng giám đốc Công ty ký và đóng dấu mộc của Công ty có cơ sở để xác định Công ty TNHH SX VPP-TM Hán Sơn đã đặt hàng với DNTN bao bì giấy Mai Phát và còn nợ số tiền như trên.

    Căn cứ giấy uỷ quyền ngày 28/07/2006 do ông Hà Hán Tuyên – Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Tổng Giám đốc Công ty đã uỷ quyền cho ông Hà Hán Mến (Trương Hán Mến )- Uỷ viên Hội đồng thành viên được quyền thay mặt Tổng giám đốc điều hành quản lý Công ty trong thời gian Tổng giám đốc vắng mặt.

    Căn cứ vào lời khai của ông Hà Hán Mến –là thành viên góp vốn thành lập và tham gia điều hành Công ty từ tháng 6/2006 đến nay cũng đã xác nhận số nợ trên chưa thanh toán cho nguyên đơn.

    Xét, ông Hà Hán Tuyên – chết ngày 15/8/2006, không để lại di chúc, vì vậy, hàng thừa kế theo pháp luật của ông Tuyên gồm có mẹ là bà Trương Ngọc Châu ; vợ là bà Khưu Mỹ Dung ; các con là Hà Túân Hưng, Hà Túân Phong và Hà Khánh Gia. Những người này là đại diện hợp pháp của phần góp vốn của ông Tuyên trong Công ty TNHH SXVPP Hán Sơn.

    Xét, ý kiến của bị đơn là bà Khưu Mỹ Dung cho rằng bà không tham gia điều hành Công ty nên không biết số nợ trên, ý kiến này là không có cơ sở chấp nhận, bởi lẽ, căn cứ vào Sơ đồ tổ chức Công ty và hợp đồng lao động lập ngày 03/01/2005 đã thể hiện bà Dung là Giám đốc tài chính kế toán của Công ty. Ngoài ra, bà Dung đề nghị để Công ty kiểm toán và xác nhận công nợ trước mới thanh toán nợ cho nguyên đơn xét thấy yêu cầu này là không thể chấp nhận, bởi lẽ, căn cứ vào các chứng cứ gồm đơn đặt hàng và các hoá đơn GTGT từ tháng 5/2005 đến tháng 8/2006 thể hiện việc Công ty TNHH SX VPP&TM Hán Sơn có việc đặt hàng gia công bao bì nhãn với nguyên đơn và phát sinh tiền nợ là 380.160.271 đồng như nguyên đơn trình bày, ngoài ra từ tháng 8/2006 đến 5/10/2006 phát sinh công nợ là 20.477.100 đồng, do đó tổng số nợ phải trả là 400.637.371 đồng. Xét công nợ này đã được thành viên còn lại của Công ty là ông Hà Hán Mến xác nhận phù hợp với nội dung biên bản họp thành viên Công ty, đồng thừa kế của thành viên và đại diện các nhà cung cấp ngày 15/02/2007 trong đó có xác nhận của bà Khưu Mỹ Dung, vì vậy nghĩ nên chấp nhận yêu cầu đòi nợ tiền hàng trên của nguyên đơn.

    Xét, về thời gian trả nợ nguyên đơn đồng ý thu hồi trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật và tự nguyện không tính lãi suất chậm trả và lãi chậm thanh toán trong thời gian chưa thi hành án, vì vậy, nghĩ nên chấp nhận. Các bên thi hành tại cơ quan Thi hành án dân sự TP.HCM .

    Xét, ý kiến của Luận sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Hà Hán Mến có phần phù hợp với phân tích trên, vì vậy, có cơ sở để chấp nhận.

    Về án phí : bị đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm có giá ngạch trên phần phải thanh toán cho nguyên đơn ; hoàn trả tiền tạm nộp án phí cho nguyên đơn.

    Vì các lẽ trên,

    QUYẾT ĐỊNH

    + Căn cứ điều 210 Bộ Luật tố tụng dân sự có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 2005; điều 49, điều 71, điều 241 và 242 Luật Thương mại năm 1998, điều 636, 637 và điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005, Khỏan 2 điều 15, khoản 2 điều 18, khoản 1 điều 19 Nghị định 70/CP của Chính phủ quy định về án phí, lệ phí của Tòa án ngày 12 tháng 06 năm 1997; tuyên xử :

    - Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn : Công ty TNHH Sản xuất Văn phòng phẩm và Thương mại Hán Sơn gồm các thành viên là ông Hà Hán Mến (Trương hán Mến), bà Trương Ngọc Châu, bà Khưu Mỹ Dung và các con là Hà Tuấn Hưng; Hà Tuấn Phong và Hà Khánh Gia có trách nhiệm thanh toán số nợ là 400.637.371 đồng cho Ông Mai Thanh Hoàng – Chủ DNTN Sản xuất gia công bao bì giấy Mai Phát phát sinh từ việc đặt hàng gia công từ tháng 05/2005 đến tháng 5/10/2006.

    - Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn đồng ý cho thanh toán số nợ trên trong thời hạn 1 tháng tính từ ngày án có hiệu lực pháp luật và không yêu cầu tính lãi suất quá hạn trong thời gian bị đơn chưa thi hành án. Giao nhận tiền tại cơ quan Thi hành án Dân sự TP.Hồ chí Minh .

    +Về án phí kinh tế sơ thẩm : Công ty TNHH SX VPP&TM Hán Sơn gồm các thành viên nêu trên phải chịu là 15.019.500 đồng nộp tại cơ quan Thi hành án dân sự TP.HCM. Ông Mai Thanh Hoàng – Chủ DNTN Sản xuất gia công bao bì giấy Mai Phát không phải chịu án phí kinh tế sơ thẩm, được hoàn trả số tiền tạm nộp án phí là 7.509.561 đồng theo Biên lai số 002064 ngày 25/5/2007 của cơ quan Thi hành án dân sự TP.HCM.

    Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết hoặc tống đạt hợp lệ./.

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 23/05/2013 07:21:35 SA
     
    9595 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận