Bộ Công Thương đang lấy ý kiến Dự thảo Thông tư quy định cách xác định hàng hóa sản xuất tại Việt Nam.
Trong đó, Dự thảo Thông tư này quy định về cách xác định hàng hóa sản xuất tại Việt Nam đối với hàng hóa lưu thông trong nước. Dự thảo không áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu.
Việc xác định xuất xứ hàng hóa đối với hàng hóa xuất khẩu thực hiện theo quy định của pháp luật về xuất xứ hàng hóa xuất khẩu hoặc quy định của nước nhập khẩu về xác định xuất xứ hàng hóa.
Theo Dự thảo, hàng hóa sản xuất tại Việt Nam bao gồm là:
- Hàng hóa sản xuất tại Việt Nam;
- Hàng hóa chế tạo tại Việt Nam;
- Hàng hóa có xuất xứ Việt Nam;
- Hàng hóa sản xuất bởi Việt Nam;
- Hàng hóa là sản phẩm của Việt Nam;
- Hàng hóa do Việt Nam sản xuất.
Tại Điều 5 Dự thảo Thông tư quy định về cách xác định hàng hóa sản xuất tại Việt Nam cụ thể như sau:
Hàng hoá được xác định là hàng hóa sản xuất tại Việt Nam bao gồm:
(1) Cây trồng và các sản phẩm từ cây trồng được trồng và thu hoạch tại Việt Nam.
(2) Động vật sống được sinh ra và nuôi dưỡng tại Việt Nam.
(3) Sản phẩm từ động vật sống nêu tại khoản 2 Điều này.
(4) Sản phẩm thu được từ săn bắn, đặt bẫy, đánh bắt, nuôi trồng, thu lượm hoặc săn bắt tại Việt Nam.
(5) Khoáng sản và chất sản sinh tự nhiên, không được liệt kê từ khoản 1 đến khoản 4 Điều 5, được chiết xuất hoặc lấy ra từ đất, nước, đáy biển hoặc dưới đáy biển của Việt Nam.
(6) Sản phẩm lấy từ nước, đáy biển hoặc dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải, nơi Việt Nam có quyền khai thác đối với vùng nước, đáy biển và dưới đáy biển theo luật pháp quốc tế.
(7) Sản phẩm đánh bắt và hải sản khác đánh bắt từ vùng biển quốc tế bằng tàu được đăng ký ở Việt Nam hoặc được phép treo cờ của Việt Nam.
(8) Sản phẩm được chế biến hoặc được sản xuất từ các sản phẩm nêu tại khoản 7 Điều 5 ngay trên tàu được đăng ký ở Việt Nam hoặc được phép treo cờ của Việt Nam.
(9) Vật phẩm thu được trong quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng ở Việt Nam hiện không còn thực hiện được chức năng ban đầu, không thể sửa chữa hay khôi phục được và chỉ có thể vứt bỏ hoặc dùng làm các nguyên liệu, vật liệu thô, hoặc sử dụng vào mục đích tái chế.
(10) Hàng hoá thu được hoặc được gia công, chế biến tại Việt Nam từ các sản phẩm nêu từ khoản 1 đến khoản 9 Điều 5.
(11) Trường hợp hàng hóa trải qua công đoạn gia công, chế biến cuối cùng tại Việt Nam nhưng không thuộc các trường hợp xác định từ khoản 1 đến khoản 10 Điều này thì áp dụng các phương pháp xác định tại Điều 6, Điều 7 và chi tiết quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Dự thảo Thông tư.
Ngoài ra tại Điều 6,7 của Dự thảo còn quy định về Cách xác định hàng hóa sản xuất tại Việt Nam bằng phương pháp chuyển đổi mã số hàng hóa và phương pháp tính hàm lượng giá trị Việt Nam.
Ngoại trừ các trường hợp tại Điều 5, quy định hàng hóa không được xác định là sản xuất tại Việt Nam nếu chỉ trải qua một hoặc kết hợp nhiều công đoạn gia công, chế biến sau đây:
- Các công việc bảo quản hàng hoá trong quá trình vận chuyển và lưu kho (thông gió, trải ra, sấy khô, làm lạnh, đông lạnh, ngâm trong muối, xông lưu huỳnh hoặc thêm các phụ gia khác, loại bỏ các bộ phận bị hư hỏng và các công việc tương tự).
- Các công việc như lau bụi, sàng lọc, chọn lựa, phân loại (bao gồm cả việc xếp thành bộ) lau chùi, sơn, chia cắt ra từng phần.
- Thay đổi bao bì đóng gói và tháo dỡ hay lắp ghép các lô hàng; đóng chai, lọ, đóng gói, bao, hộp và các công việc đóng gói bao bì đơn giản khác.
- Dán lên sản phẩm hoặc bao gói của sản phẩm các nhãn hiệu, nhãn, mác hay các dấu hiệu phân biệt tương tự.
- Trộn đơn giản các sản phẩm, dù cùng loại hay khác loại.
- Lắp ráp đơn giản các bộ phận của sản phẩm để tạo nên một sản phẩm hoàn chỉnh.
- Giết, mổ động vật.
Xem thêm Dự Thảo Thông tư tại file bên dưới.