Trong kinh doanh bất động sản, khái niệm “đất thổ cư” là từ ngữ được sử dụng khá phổ biến. Nhiều người thắc mắc theo quy định hiện nay thì “đất thổ cư” có phải là “đất ở” hay không?
Trong cuộc sống, thuật ngữ đất thổ cư được dùng để phân biệt với đất thổ canh (đất canh tác hay còn gọi là đất nông nghiệp) nhưng khái niệm “đất thổ cư” không được ghi nhận trong bất kì văn bản pháp luật về đất đai nào mà từ khi Luật đất đai được ban hành, các nhà làm luật chỉ sử dụng khái niệm “đất ở”. Theo quy định pháp luật hiện hành, Phụ lục 1 Thông tư 27/2018/TT-BTNMT ngày 14/12/2018 quy định về định nghĩa đất ở như sau:
“Đất ở là đất để xây dựng nhà ở, các công trình phục vụ cho đời sống và vườn, ao gắn liền với nhà ở đã được công nhận là đất ở.”
Với quy định trên, chúng ta hiểu rằng đất ở là loại đất dùng để xây dựng nhà ở, các công trình phục vụ đời sống dân cư. Ngoài ra, đất vườn ao gắn với nhà ở trên cùng một thửa đất thuộc khu dân cư cũng đã được Nhà nước công nhận là đất ở.
Thực tế, “đất thổ cư” là cách nói theo âm Hán – Việt, còn “đất ở” là cách nói theo âm thuần Việt và hoàn toàn không có cơ sở nào để nói rằng “đất thổ cư” không phải là “đất ở”.
Do vậy, chúng ta có thể hiểu thực tiễn hiện nay đất thổ cư chính là một cách gọi khác của đất ở. Nói cách khác, đất thổ cư chỉ là từ truyền thống để chỉ đất ở. Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 10 Luật đất đai 2013 thì đất ở thuộc nhóm đất phi nông nghiệp, bao gồm: đất ở đô thị và nông thôn.