Ngày 15/4 vừa qua, trên các trang mạng xã hội đăng tải thông tin về các quy định của Nghị định 15/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020 của Chính phủ quy định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử liên quan đến hành vi đăng tải thông tin hình ảnh của người khác sẽ bị xử phạt 20.000.000 đồng.
Vậy thật hư nội dung thông tin này như thế nào? Liệu rằng cứ có hành vi tự ý đăng tải hình ảnh của người khác lên mạng xã thì nhất định sẽ bị xử phạt với mức phạt là 20.000.000 đồng không?
Có phải mọi hành vi đăng tải thông tin của cá nhân, tổ chức lên mạng xã hội đều bị xử phạt?
Tại điểm e khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020, cụ thể:
“Điều 102. Vi phạm quy định về lưu trữ, cho thuê, truyền đưa, cung cấp, truy nhập, thu thập, xử lý, trao đổi và sử dụng thông tin
3. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
e) Thu thập, xử lý và sử dụng thông tin của tổ chức, cá nhân khác mà không được sự đồng ý hoặc sai mục đích theo quy định của pháp luật;”
Từ quy định trên có thể thấy được việc xử phạt vi phạm xảy ra khi việc đăng tải này không được sự đồng ý hoặc sai mục đích theo quy định của pháp luật. Như vậy, căn cứ vào quy định này thì câu hỏi đặt ra là sai mục đích theo quy định của pháp luật được quy định như thế nào?
Để làm rõ cho câu hỏi trên, cần phải tìm hiểu đến các quy định của luật có liên quan ví dụ như Bộ luật Dân sự năm 2015, quy định việc thu thập, xử lý và sử dụng thông tin, hình ảnh của tổ chức, cá nhân khác được quy định tại Điều 32 và Điều 38 như sau:
“Điều 32. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh
1. Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình.
Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý.
Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
2. Việc sử dụng hình ảnh trong trường hợp sau đây không cần có sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của họ:
a) Hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng;
b) Hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.”
“ Điều 38. Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình
2. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác.
4. Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Căn cứ vào các quy định nêu trên thì không phải mọi trường hợp đăng tải thông tin, hình ảnh của cá nhân, tổ chức khác lên mạng xã hội sẽ bị xử phạt. Tùy trường hợp luật có quy định khác mà việc sử dụng thông tin, hình ảnh của cá nhân, tổ chức khác khi không có sự đồng ý của họ vẫn không bị xử phạt.
Ví dụ như trường hợp hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng thì không bị xử phạt khi tự ý đăng tải thông tin, hình ảnh của tổ chức, cá nhân khác lên các trang mạng xã hội.
Khi có hành vi vi phạm trên thì mức xử phạt là 20.000.000 đồng?
Theo khoản 3 Điều 4 Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định về mức phạt tiền như sau:
“3. Mức phạt tiền quy định từ Chương II đến Chương VII tại Nghị định này được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của tổ chức, trừ quy định tại Điều 106 Nghị định này. Trường hợp cá nhân có hành vi vi phạm như của tổ chức thì mức phạt tiền bằng 1/2 mức phạt tiền đối với tổ chức.”
Đồng thời, tại khoản 3 Điều 102 Nghị định trên cũng quy định:
“3. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
e) Thu thập, xử lý và sử dụng thông tin của tổ chức, cá nhân khác mà không được sự đồng ý hoặc sai mục đích theo quy định của pháp luật;”
Như vậy khi có hành vi thu thập, xử lý và sử dụng thông tin của tổ chức, cá nhân khác mà không được sự đồng ý hoặc sai mục đích theo quy định của pháp luật thì mức xử phạt đối với tổ chức là từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Trường hợp, đối với cá nhân thì mức phạt tiền bằng 1/2 mức phạt tiền đối với tổ chức tức là mức phạt từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.