Số hiệu
|
16/2007/KDTM-PT
|
Tiêu đề
|
Công ty TNHH sản xuất thương mại Linh Như kiện Công ty TNHH Thương Mại dịch vụ Hải Dương
|
Ngày ban hành
|
28/02/2007
|
Cấp xét xử
|
Phúc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Kinh tế
|
Toà phúc thẩm cho rằng tòa cấp sơ thẩm chỉ giao các loại giấy tờ cho Ủy ban nhân dân để niêm yết, chứ chưa có lập biên bản niêm yết, hơn nữa cấp sơ thẩm cũng chưa làm quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật để gửi cho Công ty TNHH thương dịch vụ Hải Dương là vi phạm tố tụng dân sự. Mặt khác, theo quy định tại khoản 1 điều 154 Bộ luật tố tụng dân sự thì việc niêm yết công khai văn bản tố tụng chỉ được thực hiện khi không rõ tung tích của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo, hoặc không thể thực hiện được việc cấp, tống đạt hoặc thông báo trực tiếp. Nhưng Công ty TNHH thương mại dịch vụ Hải Dương, vẫn thường xuyên có mặt để hoạt động kinh doanh tại 82 Bùi Viện, nhưng toà lại không nhờ Ủy ban nhân dân phường, hoặc toà án cử người đến địa chỉ trên để tống đạt, để lập biên bản việc tống đạt cho Công ty TNHH thương mại dịch vụ Hải Dương, nhưng lại xét xử vắng mặt bị đơn và cho rằng bị đơn vắng mặt không có lý do chính đáng là chưa đảm bảo thủ tục tố tụng. Vì vậy cần chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH dịch vụ thương mại Hải Dương, hủy bản án sơ thẩm, để cấp sơ thẩm điều tra xét xử lại theo quy định của pháp luật.
Bản số :16/2007/KDTM-PT Ngày : 28 tháng 02 năm 2007
Về việc: “Tranh chấp hợp đồng mua bán”.
Nguyên đơn: Công ty TNHH Sản Xuất Thương Mại Linh Như
Bị đơn: Công ty TNHH Thương Mại dịch vụ Hải Dương
NHẬN THẤY
Theo đơn khởi kiện ngày 03 tháng 6 năm 2004 và bản giải trình ngày 15/5/2006 của Công ty TNHH sản xuất thương mại Linh Như thì ngày 23/8/2001 Công ty TNHH sản xuất thương mại Linh Như và Công ty TNHH thương mại dịch vụ Hải Dương có ký hợp đồng mua bán số01/LN-HĐ/2001 với nội dung Công ty TNHH sản xuất thương mại Linh Như bán cho Công ty TNHH thương mại dịch vụ Hải Dương 114.000kg lá thuốc lá chưa tước cọng trị giá là 1.122.000.000 đồng.
Ngày 31/12/2001 hai bên ký biên bản thỏa thuận quy định: “Các hợp đồng, phụ lục hợp đồng trước đây giữa Hải Dương và Linh Như không còn giá trị nữa. Hai bên làm biên bản thỏa thuận mua bán lá thuốc lá còn lại trong kho tại trạm kinh doanh chế biến nông sản xuất khẩu địa chỉ số 288/2 Hùng Vương, An Lạc, Bình Chánh, hàng hai lửa còn gởi kho là 1.619 kiện tương đương ước trên dưới 83 tấn (tám mươi ba ngàn kg). Bên Linh Như ứng trước 250.000.000 đồng. Hai bên ấn định giá thanh toán một kg thuốc lá lá 10.300 đồng.
Thực hiện biên bản thỏa thuận ngày 31/12/2001, Công ty TNHH thương mại dịch vụ Hải Dương đã nhận hàng là 1.619 kiện tương đương với 83 tấn. Cụ thể: Ngày 24/01/2002 nhận 104 kiện, ngày 13/5/2003 nhận 647 kiện và ngày 7 và 8/10/2003 nhận 868 kiện.
Do việc ông Linh tự ý nhận hàng vào ngày 7 và 8/10/2003 nhưng không thông báo cho Công ty TNHH sản xuất thương mại Linh Như biết như bản thỏa thuận về hợp đồng thuê kho ký ngày 09/11/2001 (khi xuất hàng phải có sự chứng kiến của 02 bên cùng xác nhận số lượng).
Khi phát hiện việc ông Phạm Bá Linh lấy hàng, chúng tôi đã yêu cầu ông Linh phải thanh toán dứt điểm công nợ cũng như giải thích việc lấy hàng. Vào ngày 25/10/2003 ông Linh có văn bản xác nhận việc lấy hết số hàng trong kho.
Qua cân đối số lượng hàng ông Linh (Công ty TNHH thương mại dịch vụ Hải Dương) đã nhận như sau:
Đợt 1:
- Ngày 26/9/2001 giao 925kg x 10.500 đồng = 9.712.500 đồng.
- Ngày 29/6/2001 giao 1.007 kg x 7.500 đồng = 7.552.500 đồng.
Đợt 2: Ngày 30/9/2001 giao 9.795 kg x 6.000 đồng = 58.770.000 đồng.
Đợt 3: Thực hiện giao hàng theo biên bản thỏa thuận ngày 31/12/2001 với số lượng là 1.619 kiện tương đương với 83.000kg trị giá là 854.900.000 đồng (83.000kg x 10.300 đồng/kg = 854.900.000 đồng).
Tổng cộng trị giá hàng mà Công ty TNHH thương mại dịch vụ Hải Dương đã nhận là 930.935.000 đồng (9.712.500 đồng + 7.552.500 đồng + 58.770.000 đồng + 854.900.000 đồng = 930.935.000 đồng).
Công ty TNHH thương mại dịch vụ Hải Dương đã trả 800.000.000 (500.000.000 đồng vào ngày 23/8/2001 theo phiếu thu số 01/08, 50.000.000 đồng vào ngày 29/10/2001 theo phiếu thu số 01/10 và 250.000.000 đồng vào ngày 02/01/2002 theo phiếu thu số 01/01 thu tiền theo biên bản thỏa thuận).
Cân đối lại Công ty TNHH thương mại dịch vụ Hải Dương còn nợ Công ty TNHH sản xuất thương mại Linh Như số tiền là 130.935.000 đồng.
Do nhiều lần yêu cầu trả nợ nhưng Công ty TNHH thương mại dịch vụ Hải Dương không trả nợ, nên Công ty TNHH sản xuất thương mại Linh Như đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Công ty TNHH thương mại dịch vụ Hải Dương phải thanh toán số tiền nợ 130.935.000 đồng.
Tại bản án kinh doanh thương mại số 282/2006/KDTM ngày 16/6/2006 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 điều 31 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, điều 242 Luật Thương mại 1997; Căn cứ vào điểm a khoản 1 điều 35; khoản 3 điều 159 và khoản 2 điều 200 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ vào thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp và Bộ tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản.
Căn cứ Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ quy định về án phí và lệ phí Toà án.
1- Chấp nhận yêu cầu của Công ty TNHH sản xuất thương mại Linh Như buộc Công ty TNHH thương mại dịch vụ Hải Dương phải trả cho Công ty TNHH sản xuất thương mại Linh Như số tiền là 139.935.000 đồng.
2- Về án phí:
a) Công ty TNHH thương mại dịch vụ Hải Dương phải chịu án phí trên số tiền là 139.935.000 đồng. Tiền án phí là 6.237.400 đồng, nộp tại thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh.
b) Hoàn trả toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.118.700 đồng theo biên lai thu tiền số 002493 ngày 25/6/2004 của Đội thi hành án quận 5, cho Công ty TNHH sản xuất thương mại Linh Như.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất do chậm thi hành, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 19/8/2006 Công ty TNHH thương mại dịch vụ Hải Dương có đơn kháng cáo xin xét xử lại.
Tại phiên toà hôm nay đại diện Công ty TNHH thương mại dịch vụ Hải Dương vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo yêu cầu xem xét lại những chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ là tài liệu photo, những tài liệu giả. Cụ thể hợp đồng mua bán số 1 ngày 23/8/2001. Vụ án đã được nhiều cấp, nhiều lần giải quyết. Nhưng không biết sao Toà án thành phố Hồ Chí Minh thụ lý giải quyết, mà Công ty chúng tôi không được triệu tập để làm việc nhưng toà án lại xử sơ thẩm ngày 16/6/2006 chúng tôi không biết. Việc điều tra, xét xử của cấp sơ thẩm vắng mặt công ty chúng tôi là không đúng, chúng tôi đề nghị Toà phúc thẩm hủy án sơ thẩm để cấp sơ thẩm điều tra, hoà giải, xét xử có mặt hai bên để làm rõ những vấn đề mà Công ty TNHH sản xuất thương mại Linh Như.
Xét thấy:
Tại bản án số282/2006/KDTM-ST ngày 16/6/2006 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã xử vụ kiện tranh chấp hợp đồng mua bán giữa nguyên đơn Công ty TNHH sản xuất thương mại Linh Như, và Công ty TNHH thương mại dịch vụ Hải Dương, về hợp đồng mua bán số 01 ngày 23/8/2001. Trong quá trình thực hiện hợp đồng trên, các bên đã giải quyết đối chiếu, nhưng Công ty TNHH thương mại dịch vụ Hải Dương còn thiếu tiền mua hàng của Công ty TNHH sản xuất thương mại Linh Như số tiền 130.935.000 đồng, nên buộc Công ty TNHH dịch vụ thương mại Hải Dương phải trả lại cho Công ty TNHH sản xuất thương mại Linh Như số tiền trên.
Trong đơn kháng cáo của Công ty TNHH dịch vụ thương mại Hải Dương kháng cáo không đồng ý với quyết định trên của bản án.
Trong đơn kháng cáo còn cho rằng quá trình điều tra, xét xử Toà án không báo cho Công ty TNHH dịch vụ thương mại Hải Dương tham gia, đối chiếu để làm rõ về quyết định trên của toà án.
Bản án sơ thẩm nhận định: Toà đã tiến hành gửi giấy báo, Công ty TNHH dịch vụ thương mại Hải Dương, nhưng không có mặt, Toà cũng đã nhiều lần nhờ chính quyền địa phương niêm yết tại địa phương theo quy định của pháp luật, nhưng phía Công ty TNHH dịch vụ thương mại Hải Dương vắng mặt không có lý do nên Toà tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Qua xem xét các giấy báo của Toà án cho Công ty TNHH dịch vụ thương mại Hải Dương đều báo theo địa chỉ 82 Bùi Viện, phường Phạm Ngũ Lão, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Tống đạt bản án, niêm yết bản án tại Ủy ban nhân dân phường, và niêm yết bản án sơ thẩm vắng mặt cho Công ty TNHH dịch vụ thương mại Hải Dương đã được thực hiện.
Tại bản niêm yết ngày 30/5/2006, biên bản niêm yết giấy triệu xét xử lần 2.
- Biên bản niêm yết giấy triệu tập xét xử, ngày 5/5/2006.
- Biên bản niêm yết bản án ngày 26/6/2006.
- Biên bản niêm yết giấy triệu tập hoà giải lần thứ 2 vào ngày 10/3/2006.
- Biên bản niêm yết giấy triệu tập hòa giải lần 3 ngày 10/4/2006.
Qua xem xét các giấy tờ trên thì người giao biên bản niêm yết là đại diện Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và người nhận là đại diện Ủy ban nhân dân phường Phạm Ngũ Lão, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
Việc giao các giấy tờ trên cho ủy ban nhân dân phường Phạm ngũ Lão nhưng chưa có một giấy tờ để chứng minh là Ủy ban nhân dân phường Phạm Ngũ Lão đã niêm yết các giấy tờ nêu trên hay chưa ? theo quy định của pháp luật thì đại diện Toà án, đại diện ủy ban phường phải lập biên bản niêm yết. Vào thời gian và có văn bản lưu hồ sơ. Nhưng ở đây tất cả các văn bản đều ghi : yêu cầu Ủy ban nhân dân phường Phạm Ngũ Lão, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh cho niêm yết các giấy triệu tập…; (tại trụ sở Ủy ban nhân dân phường Phạm Ngũ Lão, quận 1 trong vòng 15 kể từ ngày……)
Như vậy Toà án chỉ giao giấy cho Ủy ban nhân dân để niêm yết, chứ chưa có lập biên bản niêm yết, hơn nữa cấp sơ thẩm cũng chưa làm quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật để gửi cho Công ty TNHH thương dịch vụ Hải Dương là vi phạm tố tụng dân sự. Mặt khác, theo quy định tại khoản 1 điều 154 Bộ luật tố tụng dân sự thì việc niêm yết công khai văn bản tố tụng chỉ được thực hiện khi không rõ tung tích của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo, hoặc không thể thực hiện được việc cấp, tống đạt hoặc thông báo trực tiếp. Nhưng Công ty TNHH thương mại dịch vụ Hải Dương, vẫn thường xuyên có mặt để hoạt động kinh doanh tại 82 Bùi Viện, nhưng toà lại không nhờ Ủy ban nhân dân phường, hoặc toà án cử người đến địa chỉ trên để tống đạt, để lập biên bản việc tống đạt cho Công ty TNHH thương mại dịch vụ Hải Dương, nhưng lại xét xử vắng mặt bị đơn và cho rằng bị đơn vắng mặt không có lý do chính đáng là chưa đảm bảo thủ tục tố tụng. Vì vậy cần chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH dịch vụ thương mại Hải Dương, hủy bản án sơ thẩm, để cấp sơ thẩm điều tra xét xử lại theo quy định của pháp luật.
Bởi các lẽ trên, áp dụng khoản 3 Điều 275, Điều 277 Bộ luật tố tụng dân sự.
QUYẾT ĐỊNH
Chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty TNHH dịch vụ thương mại Hải Dương, hủy án sơ thẩm.
Xử : Hủy bản án số282/2006/KDTM-ST ngày 16/6/2006 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
Giao hồ sơ vụ án để cấp sơ thẩm Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh điều tra, xét xử lại vụ án theo quy định của pháp luật.
Công ty TNHH dịch vụ thương mại Hải Dương không phải chịu án phí phúc thẩm.
Bản án này chung thẩm./.
Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 24/05/2013 08:17:16 SA