Chào bạn,
Thắc mắc của bạn, tôi giải đáp như sau:
Do không có đầy đủ thông tin về nội dung hợp đồng doanh nghiệp mua lại trái phiếu nên không có cơ sở trả lời cụ thể.
Tôi chỉ giải đáp các vấn đề trên nguyên tắc chung.
- Theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 153/2020/NĐ-CP, sửa đổi, bổ sung theo khoản 5, Điều 1 Nghị định 65/2022/NĐ-CP thì: Doanh nghiệp phát hành được mua lại trước hạn trái phiếu theo thỏa thuận với người sở hữu trái phiếu.
Như vậy, bạn và doanh nghiệp thỏa thuận ký hợp đồng mua lại trái phiếu là phù hợp với quy định của pháp luật.
- Bạn cần xem lại thời điểm có hiệu lực của hợp đồng mua lại trái phiếu.
Nếu hợp đồng đã có hiệu lực thì về nguyên tắc doanh nghiệp phải có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng, thanh toán tiền cho bạn.
Doanh nghiệp cho rằng chưa mua lại trái phiếu vì nguyên nhân bất khả kháng thì nguyên nhân đó là gì? Có quy định trong hợp đồng hay không? Nguyên nhân bất khả kháng có phù hợp với quy định của pháp luật hay không?
Nếu nguyên nhân mà doanh nghiệp đưa ra không quy định trong hợp đồng là nguyên nhân bất khả kháng và pháp luật không quy định nguyên nhân này là nguyên nhân bất khả kháng thì việc doanh nghiệp lấy lý do bất khả kháng để không thực hợp đồng là không có cơ sở.
- Về việc tố cáo hành vi vi phạm của doanh nghiệp:
Nếu doanh nghiệp vi phạm trong hoạt động chứng khoán, thì theo quy định tại Điều 47 Nghị định 156/2020/NĐ-CP về thẩm quyền xử lý vi phạm, bạn có thể tố cáo đến Ủy ban chứng khoán nhà nước hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để giải quyết.
Ngoài ra, bạn có thể khởi kiện ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án giải quyết buộc doanh nghiệp phải thanh toán tiền mua lại trái phiếu.
Trên đây là những giải đáp để bạn tham khảo.
Mến chào.
Luật sư Đoàn Khắc Độ, Giám đốc Công ty Luật TNHH Đại Đức
Điện thoại: 0903 168 986
Email: do@luatdaiduc.vn
Website: www.luatdaiduc.vn