Tết Nguyên đán gần kề, nhiều người háo hức mong chờ vào các khoản thưởng Tết nhưng nếu công ty cho người lao động nghỉ việc vào cuối năm thì liệu người lao động có được thưởng Tết không?
Vấn đề này được xem là trường hợp công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo điều 36 Bộ luật Lao động năm 2019. Khi công ty cho người lao động nghỉ việc đúng theo quy định pháp luật thì công ty có trách nhiệm: “Trong thời hạn 14 ngày làm việc kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản tiền có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày trong một số trường hợp.” (được quy định tại khoản 1 điều 48 Bộ luật Lao động 2019).
Ngoài ra, tại khoản 3 điều 48 Bộ luật Lao động 2019 quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động như sau:
“3. Người sử dụng lao động có trách nhiệm sau đây:
a) Hoàn thành thủ tục xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và trả lại cùng với bản chính giấy tờ khác nếu người sử dụng lao động đã giữ của người lao động;
b) Cung cấp bản sao các tài liệu liên quan đến quá trình làm việc của người lao động nếu người lao động có yêu cầu. Chi phí sao, gửi tài liệu do người sử dụng lao động trả.”
Qua quy định trên, có thể thấy nếu người sử dụng đơn phương chấm dứt hợp đồng theo quy định pháp luật sẽ có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản tiền liên quan nhưng không quy định cụ thể là đây có bao gồm khoản tiền thưởng Tết không. Ngoài ra, điều luật cũng chỉ quy định thêm trách nhiệm của công ty liên quan đến thủ tục bảo hiểm cũng như các tài liệu liên quan đến quá trình làm việc của người lao động. Như vậy, quy định này không quy định về trách nhiệm thưởng Tết của công ty khi cho người lao động nghỉ việc vào cuối năm.
Theo điều 41 Bộ luật Lao động 2019, nếu công ty cho người lao động nghỉ việc trái pháp luật (không thuộc các trường hợp quy định tại điều 36 Bộ luật Lao động 2019), thì công ty có nghĩa vụ:
- Nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết; phải trả tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người lao động không được làm việc và phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
- Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì hai bên thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
- Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước quy định tại khoản 2 Điều 36 của Bộ luật này thì phải trả một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.
- Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc thì ngoài khoản tiền phải trả quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật Lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
- Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý thì ngoài khoản tiền người sử dụng lao động phải trả theo quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm cho người lao động nhưng ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
Như vậy, điều luật trên cũng không quy định về việc thưởng Tết khi công ty cho người lao động nghỉ việc trái pháp luật. Qua đó, có thể thấy rằng pháp luật hiện hành không quy định về việc thưởng Tết cho người lao động và việc người lao động có được thưởng Tết hay không sẽ phụ thuộc vào quy định của công ty người lao động làm việc.