Trong trường hợp bố, mẹ chồng chết không để lại di chúc thì theo quy định Điều 650 BLDS , di sản được chia thừa kế theo pháp luật cụ thể là chia theo hàng thừa kế.
Theo quy định tại Điều 651 BLDS thì con dâu không được liệt kê trong các hàng thừa kế được hưởng thừa kế theo pháp luật, gồm:
“ 1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Điều 652. Thừa kế thế vị: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.”
Như vậy, theo các quy định trên thì con dâu (nếu tại thời điểm người chồng còn sống) không được hưởng thừa kế di sản từ cha mẹ chồng khi chia thừa kế theo pháp luật. Mặc dù không thuộc hàng thừa kế nào của cha mẹ chồng nhưng người con dâu vẫn được hưởng di sản thừa kế trong trường hợp con trai (người chồng) của người để lại di sản thừa kế chết sau khi cha mẹ chết.
Nếu trong quá trình quản lý nhà đất, người con dâu có công sức đóng góp trong việc giữ gìn và tôn tạo thì có thể yêu cầu trích một phần của nhà đất để thanh toán cho công sức này. Nếu các bên không thể thống nhất được, thì có quyền khởi kiện ra tòa án để yêu cầu phân chia di sản thừa kế. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này, căn nhà thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó (khoản 1 điều 623 bộ luật Dân sự).
Như vậy, các thành viên đồng thừa kế có quyền khởi kiện hoặc yêu cầu Tòa án xác định di sản thuộc quyền sở hữu của mình theo pháp luật do cha, mẹ chồng để lại.
Luật sư: Vũ Văn Toàn - Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội; Điện thoại: 0978 99 4377
Website: https://myskincare.vn ; https://tplgiabinh.blogspot.com ; Email: luatsuvutoan@gmail.com.