Trong cuộc sống, việc có nợ nần là điều không thể tránh khỏi. Khi xảy ra tranh chấp về nợ nần, việc giải quyết cần tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
(1) Có được yêu cầu người khác làm việc cho mình để cấn trừ nợ không?
Theo quy định tại Điều 17 Bộ Luật Lao động 2019, có một số hành vi mà người sử dụng lao động không được phép thực hiện khi giao kết và thực hiện hợp đồng lao động, cụ thể bao gồm:
- Giữ bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng, chứng chỉ của người lao động.
- Yêu cầu người lao động phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động.
- Buộc người lao động thực hiện hợp đồng lao động để trả nợ cho người sử dụng lao động.
Theo quy định này, rõ ràng rằng việc yêu cầu người lao động làm việc để cấn trừ nợ là hành vi không hợp pháp.
Điều này phù hợp với nguyên tắc cơ bản khi giao kết hợp đồng lao động được quy định tại Điều 15 Bộ Luật Lao động 2019, bao gồm các yếu tố như tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và trung thực. Việc ép buộc người lao động thực hiện hợp đồng để cấn trừ nợ, nếu không xuất phát từ nguyện vọng của họ, sẽ vi phạm những nguyên tắc này.
Như vậy, việc yêu cầu người lao động làm việc để cấn trừ nợ không chỉ là một hành vi vi phạm pháp luật mà còn đi ngược lại với các giá trị đạo đức trong quan hệ lao động.
Vì thế, người sử dụng lao động không được phép yêu cầu người lao động làm việc, thực hiện hợp đồng lao động để cấn trừ, trả nợ cho mình.
(2) Nếu người lao động vay tiền mà không trả thì xử lý thế nào?
Đã có quan hệ vay nợ thì phải có nghĩa vụ trả nợ đúng hạn và trả thêm lãi suất nếu hai bên có thỏa thuận về lãi suất (Điều 463 Bộ Luật dân sự 2015).
Người sử dụng lao động tuy không được yêu cầu, ép buộc người lao động thực hiện hợp đồng lao động để trả nợ cho mình nhưng có thể áp dụng các quy định tại Điều 466 Bộ Luật dân sự 2015 để yêu cầu người lao động thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ cho mình.
Cụ thể, trường hợp cho vay không có lãi mà đến hạn trả nợ, bên vay nợ không trả hoặc trả không đầy đủ số tiền đã vay thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ Luật dân sự 2015 trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
Trường hợp cho vay có tính lãi suất mà đến hạn trả nợ, bên vay nợ không trả hoặc trả không đầy đủ số tiền đã vay thì bên vay nợ phải trả lãi như sau:
- Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ Luật dân sự 2015;
- Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Tóm lại, việc xử lý khi người lao động không trả nợ phải tuân thủ đúng các quy định pháp luật, bảo đảm quyền lợi cho cả hai bên và duy trì sự công bằng trong quan hệ vay mượn.
(3) Lãi suất cho vay tối đa là bao nhiêu?
Theo quy định tại Điều 468 Bộ Luật dân sự 2015, lãi suất vay do các bên thỏa thuận, tuy nhiên phải tuân thủ theo các quy định về lãi suất như sau:
- Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác
- Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn 20%/năm thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
- Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn (tức 10%) tại thời điểm trả nợ.
Theo đó, căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Như vậy, mức lãi suất cho vay tối đa được tính là 20%/năm, nếu hai bên thỏa thuận mức lãi suất cao hơn mức giới hạn này thì phần vượt quá sẽ không có hiệu lực.