Theo khoản 1 điều 46 Bộ luật Dân sự 2015: “Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ).” Từ quy định này, có thể thấy người giám hộ phải là người được luật quy định; được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn cử; được Tòa án chỉ định hoặc người được người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự đang trong tình trạng cần chọn người giám hộ.
Khoản 1 điều 47 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về các trường hợp người được giám hộ bao gồm:
- Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ;
- Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ;
- Người mất năng lực hành vi dân sự;
- Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Như vậy, pháp luật hiện hành không quy định cha mẹ đương nhiên là người giám hộ cho con, mà chỉ có quy định cha mẹ là người đại diện theo pháp luật cho con chưa thành niên (khoản 1 điều 136 Bộ luật Dân sự 2015). Từ các quy định trên, có thể thấy cha mẹ có thể là người giám hộ cho con trong các trường hợp:
- Cha mẹ được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc được Tòa án chỉ định khi con mất năng lực hành vi dân sự;
- Cha mẹ được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc được Tòa án chỉ định khi con có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
- Trường hợp con có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nhưng đang trong tình trạng cần người giám hộ thì cha mẹ có thể là người giám hộ cho con.