Ông An tố cáo ông Minh là Chủ tịch UBND xã có hành vi: " Vi phạm Luật đất đai, vi phạm nghĩa vụ cán bộ công chức theo Luật cán bộ công chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ khi ký xác nhận hộ ông C là hộ trực tiếp sản xuất nông nghiệp để làm thủ tục gia hạn thời gian sử dụng đất trong khi hộ này không phải hộ trực tiếp sản xuất nông nghiệp". Chứng cứ kèm theo là GCNQSDĐ của ông C đến tháng 6/2016 hết hạn SDĐ nhưng đến tháng 8/2016 GCN này được điều chỉnh tại trang 4 "Tiếp tục SDĐ đến tháng 6/2066".
Khi thụ lý, tổ xác minh thu thập được thông tin:
- Thời điểm làm thủ tục gia hạn thì ông C đã chết, có văn bản phân chia di sản thừa kế cho bà D là vợ ông C nhưng chưa làm thủ tục sang tên cho bà D vì thửa đất đang có tranh chấp (người tranh chấp là ông An không thuộc các hàng thừa kế)
- Đơn đăng ký biến động theo mẫu số 09, đứng tên ông E là con ruột của bà D với ông C.
- Ông Minh - CT.UBND xã ký xác nhận cho ông E đang trực tiếp SDĐ... (chứ không phải xác nhận cho ông C như đơn tố cáo).
Tổ xác minh mời người tố cáo đến và cho người tố cáo biết nội dung tố cáo là không đúng sự thật. Tuy nhiên người tố cáo đề nghị cho biết chứng cứ mới tâm phục, khẩu phục và Tổ đã cho biết nội dung xác nhận là xác nhận cho ông E chứ không phải xác nhận cho ông C như đơn tố cáo. Từ đó, người tố cáo đã viết đơn xin rút đơn tố cáo trên. Và sau đó người tố cáo - ông An lại có đơn tố cáo ông Minh do ký xác nhận cho ông E để làm thủ tục gia hạn. Như vậy:
1. Việc tố cáo lần 2 này có thụ lý giải quyết không, do chứng cứ ông An cung cấp là chứng cứ được cơ quan nhà nước làm bằng chứng cho lần tố cáo thứ 1.
2. Nếu vẫn được thụ lý tiếp thì lần thụ lý thứ 1, Tổ xác minh sẽ không đưa ra bằng chứng như trên mà ban hành kết luận: Nội dung tố cáo của ông An là không có chứng cứ, sai sự thật có được không?