Liên quan đến hành vi ngoại tình thì theo quy định pháp luật có thể bị xử lý về hành chính hoặc xử lý hình sự.
Về xử lý hành chính: Theo Điều 59, Nghị định 82/2020/NĐ-CP
"Điều 59. Hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng
1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
…
b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
…"
Về xử lý hình sự
Điều 182 Bộ luật hình sự 2015 về Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
"1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó."
Khi xử lý hành chính, hình sự sẽ căn cứ vào các quy định nêu trên để xác định mức xử phạt cũng như định tội.
Về chứng cứ chứng minh ngoại tình hiện không có một quy định nào cụ thể cả, thực tế có thể là: những tin nhắn, hình ảnh, ghi hình cho thấy có dấu hiệu ngoại tình. Các căn cứ này phải là có thật, không phải do tạo dựng hay làm giả mà có; chính lời khai của người có hành vi ngoại tình... Đây là một trong những cơ sở để tòa án xem xét giải quyết lỗi của các bên quan hệ hôn nhân.