Xin chào bạn.
Theo như bạn đã trình bày thì bản di chúc của bạn được lập từ tháng 11 năm 2002 nên bạn cần xem xét hình thức, nội dung của di chúc, tính hợp pháp của bản di chúc và người làm chứng về việc lập di chúc có đúng với các quy định của pháp luật không. Vì bản di chúc được lập năm 2002 nên phải áp dụng luật hiện hành, tức là Bộ luật Dân sự năm 1995.
Cơ sở pháp luật đó là căn cứ vào Điều 652, Điều 655, Điều 656, Điều 657 của Bộ luật Dân sự năm 1995, quy định về tính hợp pháp của di chúc:
Điều 652. Hình thức của di chúc
Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản, thì có thể di chúc miệng.
Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình.
Điều 655. Di chúc hợp pháp
1- Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
2- Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
3- Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
4- Di chúc bằng văn bản không có chứng nhận, chứng thực như quy định tại Điều 660 của Bộ luật này chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
Điều 656. Nội dung của di chúc bằng văn bản
1- Di chúc phải ghi rõ:
a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
d) Di sản để lại và nơi có di sản;
đ) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.
2- Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang, thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
Điều 657. Người làm chứng cho việc lập di chúc
Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1- Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2- Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
3- Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.
Như vậy, căn cứ theo các quy định trên, di chúc vẫn có thể lập thành văn bản mà không cần công chứng. Do đó, bản di chúc của ông Ngoại của bạn cần thiết đối chiếu với các quy định của pháp luật xem hình thức, nội dung, người làm chứng đã thực hiện đúng các quy định đó chưa; khi lập di chúc ông Ngoại của bạn có minh mẫn, sáng suốt hay bị đe dọa, cưỡng ép gì không và có phù hợp với đạo đức, pháp luật không,… Đồng thời, xác định những người làm chứng là các hộ địa phương lân cận gồm những ai, còn sống không; xác định 9 người con đã ký vào bản di chúc với tư cách gì và 9 người con đã ký vào bản di chúc đó có phải là 9 người con được hưởng di chúc không ( vì ông Ngoại bạn có 11 người con).