Căn cứ khoản 2 Điều 36 Luật thi hành án dân sự 2008 được sửa đổi bởi Khoản 15 Điều 1 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi 2014, Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền chỉ chủ động ra quyết định thi hành án và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành đối với phần bản án, quyết định sau:
“b) Trả lại tiền, tài sản cho đương sự;
c) Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản; các khoản thu khác cho Nhà nước;
d) Thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước;
đ) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
e) Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản."
Còn Trường hợp không thuộc vào các trường hợp trên,cơ quan thi hành án sẽ không chủ động thực hiện cưỡng chế thi hành án, mà đương sự phải làm thủ tục đề nghị thi hành án.
Theo đó:
- Tòa án đã ra bản án phải chuyển giao bản án đó cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật;
- Khi nhận bản án chuyển giao, cơ quan thi hành án dân sự phải kiểm tra, vào sổ nhận bản án, quyết định.
- Nếu bên phải thi hành án không tự nguyện thi hành án, người được thi hành án có thể yêu cầu cơ quan thi hành án ra quyết định và thực hiện thi hành án:
+ Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
+ Đương sự tự mình hoặc ủy quyền cho người khác yêu cầu thi hành án bằng hình thức trực tiếp nộp đơn hoặc trình bày bằng lời nói hoặc gửi đơn qua bưu điện. Người yêu cầu phải nộp bản án, quyết định, tài liệu khác có liên quan.
Nội dung đơn xem chi tiết tại Điều 31, nếu bản án là bản án sơ thẩm có hiệu lực của Tòa án nhân dân cấp huyện, hoặc bản án phúc thẩm của Tòa cấp tỉnh (đối với bản án sơ thẩm cấp huyện) thì Nộp đơn tại cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện
- Thời hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án.
Trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc hành vi khác nhằm trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên áp dụng ngay biện pháp quy định tại Chương IV của Luật này.
- Hết thời hạn trên, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế.