Đòi lại đất đã cho tặng, đã được sang sổ đỏ cho người nhận hơn 20 năm

Chủ đề   RSS   
  • #536612 01/01/2020

    andyminhkiet

    Sơ sinh

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:01/01/2020
    Tổng số bài viết (2)
    Số điểm: 70
    Cảm ơn: 3
    Được cảm ơn 2 lần


    Đòi lại đất đã cho tặng, đã được sang sổ đỏ cho người nhận hơn 20 năm

    Chào các luật sư,
     
    Trước hết xin cảm ơn mọi người đã dành thời gian đọc thư. Tôi tên Đỗ Minh Kiệt, sinh năm 1994, là con của ông Đỗ Văn Tỉa- người có liên quan trong một việc tranh chấp đất đai với Chú tôi là Đỗ Ru Y. Tôi có một số thắc mắc về luật trao tặng đất đai giữa cha mẹ và con cái, mong được các luật sư tư vấn.
     
    Sự việc là giữa cha tôi và ông nội tôi có xảy ra tranh chấp về quyền sử dụng đất vào năm 2014. Năm 1994, ông nội tôi- Đỗ Quới Hòn (sinh năm 1929, đã mất năm 2017) có ra cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục tặng khu đất 2.501m2 (toàn bộ khu đất cha tôi đang sinh sống) cho cha tôi là Đỗ Văn Tỉa (sinh năm 1960, vẫn còn). Do sự việc xảy ra đã lâu, nên cha tôi không nhớ là vào lúc đó ông Hòn có làm giấy tay để trao tặng đất hay không, chỉ biết là ngoài cán bộ ngoài Xã đã kiểm tra đúng quy trình và đã cấp Giấy Chứng nhận Quyền sử dụng Đất (GCN QSDĐ) cho cha tôi.
     
    Từ đó đến nay, đã hơn 20 năm, trải qua nhiều lần cấp mới lại sổ đỏ theo mẫu mới GCN QSDĐ theo quy định từ các văn bản pháp luật của Nhà nước, trong những lần ấy, khu đất cha tôi đều được các cán bộ địa chính bên cơ quan có thẩm quyền đến tận nơi xác minh, đo đạc, làm đúng các thủ tục CẤP MỚI GCN QSDĐ và không hề có trải bất cứ tranh chấp nào giữa ông Hòn và cha tôi. Đến năm 2014, do có đường dây điện cao thế được thi hành ở phía trên khu đất cha tôi, bên công ty Điện lực có đền bù một số tiền tương đối lớn.
     
    Do bị chú tôi- ông Đỗ Ru Y xúi giục để được nhận tiền đền bù nên ông Hòn đã làm đơn khởi kiện, nói rằng vào năm 1994 ông không có tặng khu đất trên cho cha tôi mà là cha tôi tự ra cơ quan để khai và làm giấy tờ, cho nên bây giờ ông Hòn muốn lấy lại TOÀN BỘ khu đất trên. Cha tôi và ông Hòn ra tòa, nhưng vì sức khỏe yếu, và bị xúi giục nên ông Hòn đã làm giấy ỦY QUYỀN để ông ĐỖ RU Y (chú tôi) đứng ra thay mặt đến dự các buổi xét xử của tòa.
     
    Sự việc kéo dài cho đến giữa năm 2017 thì ông Hòn mất. Theo như tôi đã tìm hiểu, theo quy định pháp luật, khi ông Hòn mất thì ủy quyền của ông ĐỖ RU Y cũng không còn hiệu lực. Nhưng tôi không hiểu sao, các cán bộ tòa án ở Huyện vẫn không căn cứ theo đúng quy định pháp luật để kết thúc vụ tranh chấp, mà vẫn kéo dài thời gian và cho phép ông ĐỖ RU Y tiếp tục đến tòa để tranh chấp với cha tôi.
     
    Sự việc tóm lược như trên, tôi có 02 thắc mắc mong được mọi người dành chút thời gian để giải đáp. Thứ nhất, vào năm 1994, cha tôi- ông ĐỖ VĂN TỈA được cán bộ có thẩm quyền làm đúng thủ tục cấp GCN QSDĐ cho khu đất trên nhưng cha tôi hoặc đã làm mất, hoặc không nhớ là ông nội tôi có làm Giấy tay về việc Trao tặng Đất thì việc này có khiến GCN QSDĐ hiện nay cho khu đất trên mà cha tôi đang giữ bị mất hiệu lực hay không, và tòa án có được căn cứ vào đó để lấy lại đất từ cha tôi hay không; hiện tại cha tôi có duy nhất một loại giấy tờ đó là GCN QSDĐ. Thứ hai, việc ông HÒN đã mất vào năm 2017, nhưng đến nay ông ĐỖ RU Y vẫn được ủy quyền từ ông HÒN, thay mặt đến dự các buổi xét xử của tòa thì có đúng quy định pháp luật hay không.
     
    Rất cảm ơn các luật sư đã đọc. Tôi sẽ vô cùng biết ơn nếu nhận được sự hồi đáp từ mọi người. Trân trọng.
     
    10851 | Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn andyminhkiet vì bài viết hữu ích
    ThanhLongLS (08/01/2020)

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #536987   07/01/2020

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo quy định Điều 167 Luật đất đai 2013 thì: 

    Điều 167. Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất.

     3. Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất được thực hiện như sau:

    a) Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này;

    Như vậy, trường hợp tặng cho quyền sử dụng đất phải được thực hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, phải đăng ký quyền sở hữu. Trường hợp đã tặng cho hoàn tất, việc chuyển quyền sở hữu đã xong thì tài sản đã thuộc về người được tặng cho, người tặng cho là ông nội bạn không thể đòi lại. Trừ trường hợp hợp đồng tặng cho đó là hợp đồng tặng cho có điều kiện, vi phạm cấm, vi phạm pháp luật thì có thể lấy đó làm căm cứ hủy tặng cho.

    Như vậy, ông nội chỉ có thể đòi lại tài sản đã tặng cho bố bạn trong trường hợp là tặng cho tài sản có điều kiện hoặc vi phạm điều cấm, trái pháp luật và bên được tặng cho không thực hiện nghĩa vụ sau khi được tặng cho. Vì vậy khi cha bạn vi phạm thỏa thuận thì công nội và chú bạn phải có căn cứ chứng minh tồn tại điều kiện của hợp đồng tặng cho và có vi phạm điều kiện đó.

    Tuy nhiên, trong trường hợp cha tặng cho con đất nhưng đến thời điểm người tặng cho không còn thì nghĩa vụ thực hiện đúng điều kiện tặng cho cũng không còn, vì theo quy định tại Bộ luật dân sự nêu rõ, chỉ người tặng cho mới có quyền đòi lại tài sản, nhưng người tặng cho không còn nên người nhận có thể được bán cho người khác. Những người liên quan như anh, chị, em ... trong gia đình không có quyền đồi lại tài sản, hay cấm cản.

    Theo quy định của Bộ Luật dân sự năm 2015, ủy quyền cũng là một loại hợp đồng. Căn cứ theo Khoản 3 Điều 422 Bộ Luật dân sự về các trường hợp chấm dứt hợp đồng như sau: “Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân giao kết hợp đồng chấm dứt tồn tại mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện”

    Như vậy, trong trường hợp hợp đồng ủy quyền giữa ông bạn và chú bạn được xác lập, sau đó ông bạn chết thì hợp đồng sẽ mặc nhiên chấm dứt. Khi hợp đồng chấm dứt, đồng thời chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng vì

    việc ông bạn ủy quyền sẽ chấm dứt khi bên ủy quyền chết, đây là trường hợp đương nhiên chấm dứt hợp đồng ủy quyền. Do bản chất của ủy quyền là xác lập thực hiện công việc thông qua người đại diện do đó khi người ủy quyền chết thì quan hệ xác lập thực hiện cũng không còn.

    Từ những phân tích ở trên, bố bạn có thể đưa ra những căn cứ đã nêu để yêu cầu Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án theo quy định.

    Luật sư: Vũ Văn Toàn - Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội; Điện thoại: 0978 99 4377

    Website: https://myskincare.vn ; https://tplgiabinh.blogspot.com ; Email: luatsuvutoan@gmail.com.

     
    Báo quản trị |  
    2 thành viên cảm ơn toanvv vì bài viết hữu ích
    ThanhLongLS (08/01/2020) andyminhkiet (10/01/2020)
  • #537095   10/01/2020

    Vấn đề là "nhưng cha tôi hoặc đã làm mất, hoặc không nhớ là ông nội tôi có làm Giấy tay về việc Trao tặng Đất "

    Cha ban không hề có bất kỳ văn bản nào, kể cả giấy viết tay để chứng minh việc cho tặng

    Phải xác minh ở địa phương khi làm thủ tục cấp GCN QSDĐ cho cha bạn đã đúng, đủ hay chưa? ví dụ như niêm yết công khai tại Trụ sở UBND trong thời gian theo luật định, từ đó đến nay trong gia đình ông nội, có anh em ...các hộ liền kề thắc mắc, kiện tụng việc cấp GCN QSDĐ cho cha bạn hay không? ..

    Nếu xã làm đúng thủ tục, mọi người trong gia đình ông nội biết, không ai có ý kiến gì.. thì đương nhiên công nhận việc cho tặng của ông nội bạn.

    Sau khi ông nội bạn chết, HĐUQ không còn giá trị, TA đình chỉ là phù hợp.

    Mọi người tham gia ý kiến thêm

     
    Báo quản trị |  
    2 thành viên cảm ơn anhnguyenquoc0101 vì bài viết hữu ích
    ThanhLongLS (10/01/2020) andyminhkiet (10/01/2020)
  • #537117   10/01/2020

    andyminhkiet
    andyminhkiet

    Sơ sinh

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:01/01/2020
    Tổng số bài viết (2)
    Số điểm: 70
    Cảm ơn: 3
    Được cảm ơn 2 lần


    Trước hết, mình cảm ơn mọi người đã tư vấn. Vì vụ tranh chấp này rất phức tạp nên mình xin làm rõ thêm một vài chi tiết.
     
    Thửa đất cha mình đang đứng tên là thửa số 21, nhưng cha mình chỉ xây nhà, sử dụng khoảng một nửa đất mặt tiền. Còn một nửa mặt tiền, sau khi nhận sổ đỏ năm 2000, cha mình cho ông mình xây căn nhà ở đó, trồng cây cho đến nay. Để bù lại, ông nội cho cha mình sử dụng canh tác một thửa đất khác (mặt hậu) phía sau của ông (trước đó, ông mình đã có nhà ở chỗ khác nhưng sau này ông muốn về ở gần chỗ cha mình). Sự trao đổi này chỉ là thỏa thuận miệng, không có giấy tờ.
    Năm 2012, thực hiện Nghị định 88/2009/NĐ-CP của Chính phủ (chuyển từ sổ đỏ sang sổ hồng), cán bộ địa phương đã xuống đo đạc, làm các thủ tục cho các hộ dân có nhu cầu đổi sang SỔ HỒNG. Tất cả hộ dân trong xã đều biết chủ trương này. Lúc đó, do nhà ông nội đang ở trên thửa đất 21 nên khi đo đạc, các cán bộ có hỏi ông nội mình xem có tranh chấp gì không, thì ông nội nói KHÔNG (nhưng đến khi ra tòa thì ông nội nói không có sự việc này). Do đó, năm 25/8/2014, cha mình được cấp sổ hồng.
     
    Ngoài ra, người cán bộ địa chính làm thủ tục cấp sổ đỏ (lần đầu) năm 2000 cho cha mình đã xác nhận với Tòa án huyện và UBND xã (đã lập Biên bản thu thập chứng cứ vụ án) rằng: "Khoảng năm 1989, ông Hòn có đi làm thủ tục kê khai đất cho các con (trong đó có cha mình), ông Hòn nói cho mỗi người 2.000m2 rồi để các con đứng ra tự kê khai, đứng tên làm giấy tạm. Trên cơ sở giấy tạm đó, năm 2000 tôi đã làm thủ tục cấp sổ đỏ cho ông Tỉa". Nhưng bên Văn phòng đăng ký đất đai huyện gửi công văn trả lời rằng lúc đó cha mình tự ra kê khai đất chứ không phải được tặng cho.
     
    Trong đơn khởi kiện lần đầu ngày 19/6/2015, ông nội ghi rằng năm 1996, cha mình tự đi kê khai đất, ông nội không biết. Năm 2000, thì cha mình được cấp sổ đỏ. Vào năm 2015, ông nội khởi kiện, muốn cha mình trả TOÀN BỘ thửa đất trên. Vụ án được tòa án (TAND) huyện thụ lý. Nhưng sau đó, qua nhiều lần giải thích của tòa rằng "không thể lấy được đất, đem ra xét xử thì ông sẽ thua và phải mất hơn 6 triệu tiền án phí" nên sau đó, ông nội đã rút đơn khởi kiện và tòa án đã ra Quyết định Đình chỉ giải quyết vụ án. Đến năm 2017 do có Công ty Điện lực hỗ trợ bồi thường số tiền kha khá cho thửa đất 21, vào ngày 27/02/2017, ông nội lại tiếp tục khởi kiện với yêu cầu tương tự đơn khởi kiện lần đầu. Sau đó, ông nội mất ngày 13/10/2017. Tòa án huyện cho phép các cô chú bác ruột mình đứng ra tham gia xét xử vụ án về phía nguyên đơn (ông nội).
     
    Tòa án huyện ra bản án lần đầu 17/10/2018 buộc cha mình trả lại TOÀN BỘ đất cho ông nội. Cha mình kháng cáo lên tỉnh. Ngày 30/01/2019, Tòa án tỉnh tuyên án hủy bộ toàn bộ bản án của huyện do có quá nhiều tình tiết vi phạm, và không khả thi nếu đem ra thi hành án nên đã trả về huyện xét xử lại. Ngày 30/12/2019, Tòa án huyện tuyên án BẮT BUỘC cha mình sang tên lại cho CHÚ 6 (chú này đại diện cho các cô chú bác kia để đứng tên đất) 1/2 thửa đất có nhà của ông nội nhưng không tuyên án HỦY hay THU HỒI sổ hồng của cha mình. Trong bản án ghi, nếu cha mình không thực hiện việc sang tên QSDĐ cho CHÚ 6 thì CHÚ 6 có quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để làm sổ hồng cho 1/2 thửa đất đó.
     
    Mình có một số thắc mắc:
    1. Năm 2015, ông nội đã khởi kiện, sau đó tự nguyện rút đơn thì đến năm 2017 (đã có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án), ông lại tiếp tục khởi kiện lại với lý do và đương sự tương tự thì tòa án huyện chấp nhận xét xử lại thì có đúng quy định pháp luật không?
     
    2. Việc tòa án huyện không tuyên HỦY hay THU HỒI sổ hồng của cha mình, mà chỉ tuyên án BẮT BUỘC cha mình sang tên 1/2 thửa đất cho CHÚ 6, nếu không chú mình có quyền ra cơ quan để được cấp sổ hồng thì có đúng quy định pháp luật không?
     
    3. Theo mình tìm hiểu: "Việc đăng ký quyền sử dụng đất là bắt buộc đối với người sử dụng đất" (theo Khoản 1, Điều 95, Luật Đất đai 2013; Khoản 2, Điều 46, Luật Đất đai 2003; Khoản 1, Điều 33, Luật Đất đai 1993). Từ năm 2000 đến tận 2017, ông nội có quản lý sử dụng 1/2 thửa đất, nhưng không có đi làm sổ đỏ. Trong khi cha mình đã có sổ đỏ từ năm 2000 và việc ông nội quản lý 1/2 thửa đất trên xảy ra sau khi cha mình được cấp sổ đỏ.
     
    Mình cũng có tìm hiểu về ÁN LỆ số 03/2016/AL về phần tranh chấp đất đai:
    - Có thể áp dụng cách xác định sự tồn tại của một hợp đồng tặng cho tài sản giữa cha mẹ và con cái thông qua các hành vi cụ thể của các bên.
    - Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất, vợ chồng người con đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ không có ý kiến gì và những người khác trong gia đình đều không có ý kiến phản đối; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và thời gian sau, cha mẹ đã tiến hành việc kê khai đất cho vợ chồng người con được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng người con đã được tặng cho quyền sử dụng đất.
     
    Vậy nên, việc tòa án tuyên án rằng Văn phòng đăng ký đất đai huyện đã trả lời rằng vào năm 1996, cha mình tự đi kê khai đất chứ không phải được ông nội tặng cho, từ đó để lấy lại 1/2 thửa đất trong sổ hồng thì có đúng pháp luật không?
     
    * Thật ra, mình biết những người bên phía nguyên đơn đã "ĐI CỬA SAU" với cán bộ tòa án nên xét xử rất hung dữ, chèn ép, không công bằng với cha mình. Hiện tại, cha mình đã làm đơn kháng cáo lên tỉnh một lần nữa.
     
    Rất mong nhận được sự tư vấn từ mọi người.
     
     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn andyminhkiet vì bài viết hữu ích
    ThanhLongLS (18/01/2020)
  • #537483   18/01/2020

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Trường hợp của bạn khá phức tạp và vụ án đã được giải quyết tại tòa án cấp sơ thẩm thì ba bạn có quyền kháng cáo nếu không đồng ý với bản án của tòa án cấp sơ thẩm thì có thể thực hiện quyền kháng cáo của mình để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp.  Căn cứ Khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về thời hạn kháng cáo như sau:

    “1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

    Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án.”

    Theo quy định pháp luật, nếu cha bạn không đồng ý với bản án mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên thì có quyền nộp đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại nội dung bản án. Thời hạn các bên kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án, trường hợp đương sự vắng mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời gian 15 ngày được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được tuyên án.

    Luật sư: Vũ Văn Toàn - Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội; Điện thoại: 0978 99 4377

    Website: https://myskincare.vn ; https://tplgiabinh.blogspot.com ; Email: luatsuvutoan@gmail.com.

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn toanvv vì bài viết hữu ích
    ThanhLongLS (18/01/2020)
  • #537514   18/01/2020

    TranTamDuc.1973
    TranTamDuc.1973
    Top 50
    Male
    Lớp 8

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/03/2016
    Tổng số bài viết (1355)
    Số điểm: 10622
    Cảm ơn: 178
    Được cảm ơn 1121 lần


    Chào bạn Kiệt,

    1/- Theo qui định tại điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì thời hiệu khởi kiện được thực hiện theo qui định của Bộ luật dân sự 2015. Khoản 3 điều 155 Bộ luật dân sự 2015 qui định tranh chấp về quyền sử dụng đất không áp dụng thời hiệu khởi kiện, hiểu nôm na là muốn kiện lúc nào cũng được. Như vậy, mặc dù năm 2015 đã có Quyết định đình chỉ nhưng do đây là tranh chấp về QSDĐ nên năm 2017 tòa thụ lý giải quyết lại, cũng vẫn những đương sự cũ là đúng pháp luật.

    2/- Tôi không biết trong vụ án này có đương sự nào yêu cầu hủy giấy đỏ của Ba bạn hay không, tuy nhiên dù có yêu cầu thì Tòa cũng không cần tuyên hủy giấy đỏ đã cấp cho Ba của bạn, Tòa chỉ cần tuyên những nội dung tòa cho là đúng pháp luật và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải chấp hành nghiêm chỉnh quyết định của Bản án có hiệu lực. Việc này được qui định tại điều 19 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và được Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn tại đoạn 6 mục 2 phần II Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019, nguyên văn như sau : "khi giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất mà hợp đồng đó bị vô hiệu, nhưng người nhận chuyển quyền đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đã được xác nhận nội dung biến động thì không đưa cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp giấy tham gia tố tụng và không cần phải tuyên hủy giấy chứng nhận cấp cho người nhận chuyển nhượng. Khi Tòa án tuyên hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất vô hiệu thì Văn phòng đăng ký đất đai, cơ quan Tài nguyên và Môi trường căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.". Như vậy, nội dung Tòa tuyên là không trái qui định của Pháp luật.

    3/- Tôi đồng quan điểm với bạn là phải sử dụng án lệ số 03/2016/AL để tranh luận bảo vệ quyền lợi cho Ba của bạn trong vụ án này. Tuy nhiên bạn phải thực hiện một số biện pháp thu thập chứng cứ để chứng minh ông Hòn đã cho đất cho ông Tỉa, ví dụ từ lời khai của công chức địa chính làm thủ tục xét cấp GCN năm 2000, bạn yêu cầu (hoặc đề nghị Tòa thu thập hộ nếu yêu cầu của bạn bị từ chối) UBND xã phải cung cấp tài liệu về việc ông Hòn đã đi kê khai đất cho các con mỗi người 2000m2 và giấy tạm đã cấp cho từng người, hoặc bạn phải yêu cầu Chi nhánh VPĐKĐĐ tại Huyện phải cung cấp toàn bộ hồ sơ xét cấp GCN cho ông Tỉa, hồ sơ cấp đổi GCN năm 2014 ...v...v..... để tìm trong đó xem có chứng cứ nào chứng minh ông Hòn đã cho đất hay không.

    4/- Về việc tham gia tố tụng của ông Y, hiện không phải ông tham gia với tư cách là người đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn (hợp đồng ủy quyền này đã đương nhiên chấm dứt hiệu lực từ thời điểm ông Hòn mất) mà với tư cách là người kế thừa quyền, nghĩa vụ của Nguyên đơn (những người thuộc hàng thừa kế thứ 1 của ông Hòn đều có tư cách này) theo qui định tại điều 74 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

    Chúc gia đình bạn sẽ thành công ở phiên tòa Phúc thẩm.

    Trân trọng.

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUANG THƯỢNG - 0907 829 557

    231/3A đường Chiến Lược, KP 18, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TPHCM

     
    Báo quản trị |  
    3 thành viên cảm ơn TranTamDuc.1973 vì bài viết hữu ích
    ThanhLongLS (20/01/2020) caythongnoel (01/03/2020) andyminhkiet (29/01/2020)
  • #540302   01/03/2020

    caythongnoel
    caythongnoel
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Lâm Đồng, Việt Nam
    Tham gia:29/05/2011
    Tổng số bài viết (1582)
    Số điểm: 15903
    Cảm ơn: 225
    Được cảm ơn 534 lần


    Tôi đồng ý với ý kiến tư vấn của thành viên Trantamduc.1973. Những gì bạn trình bày tôi nhận thấy bạn đang và sẽ nắm khá nhiều quy định của pháp luật, tuy nhiên bạn đang đi theo con đường tìm hiểu về câu chữ chứ chưa đi sâu và truy tìm chứng cứ chứng minh nguồn gốc, trình tự, thủ tục, hồ sơ liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận cho thửa đất đang bị tranh chấp. Khi bạn tìm được những hồ sơ, tài liệu đó thì bạn sẽ thấy có nhiều hướng mở cho vụ kiện. Đôi khi giữa việc trả lời đơn thư của cơ quan quản lý đất đai cũng khác so với thực tế hồ sơ lưu trữ mà bạn không hay biết.

    Chúc bạn tìm được chứng cứ có lợi cho mình nhé.

    Trân trọng!

    Luật sư: Nguyễn Văn Xuyên

    Văn Phòng Luật Sư Quang Thượng

    Địa chỉ: 231/3A đường Chiến Lược, P. Bình Trị Đông, quận Bình Tân, Tp. Hồ Chí Minh.

    SĐT: 0901 20.26.27

    Hợp đồng - Đất đai, Nhà cửa - Hôn nhân, Thừa kế - Hình sự - Lĩnh vực Luật khác

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn caythongnoel vì bài viết hữu ích
    ThanhLongLS (02/03/2020)

Tư vấn của Luật sư có tính chất tham khảo, bạn có thể liên hệ trực tiếp với Luật sư theo thông tin sau:

Luật sư: Vũ Văn Toàn - Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội; Điện thoại: 0978 99 4377

Website: https://myskincare.vn ; https://tplgiabinh.blogspot.com ; Email: luatsuvutoan@gmail.com.