Giáo viên chuyển từ tỉnh này sang tỉnh khác

Chủ đề   RSS   
  • #504002 05/10/2018

    nquangck

    Sơ sinh

    Hà Giang, Việt Nam
    Tham gia:01/07/2012
    Tổng số bài viết (5)
    Số điểm: 85
    Cảm ơn: 5
    Được cảm ơn 1 lần


    Giáo viên chuyển từ tỉnh này sang tỉnh khác

    Thân gửi luật sư , tôi có vấn đề cần luật sư tư vấn giúp cụ thể như sau:

    - tháng 7 năm 2017 tôi có trao đổi vớii 1 người quen qua zalo để xin chuyển công tác từ tỉnh này sang tỉnh khác, người này có yêu cầu tôi chuyển cho họ 1 số tiền để họ lo công việc. Tôi đã chuyển theo đúng yêu cầu của họ và chuyển vào thẻ của chồng người đó , hiện nay vẫn còn hóa đơn chuyển tiền.

    - Họ hẹn tôi đến 28/12/2017 là xong công việc, nhưng hết ngày 28/12/2017 tôi có hỏi thì họ bảo chưa được, họ bảo tôi chờ thêm thời gian nữa là tháng 2/2018 là xong, sau đó họ lại hẹn tiếp rất nhiều lần . Cuối cùng họ hẹn đến tháng 4/2018 nếu không được sẽ trả lại tôi tiền , nhưng họ cũng hẹn hết lần này đến lần khác. 

    Gần đây là cuối tháng 8/2018 họ trả 20 t

    đầu tháng 9/2018 trả 10 t

    ngày 24/9/2018 họ bảo trả 10 t nhưng đến ngày 25/9/2018 họ trả 7 t. 

    Tôi có gọi điện cho chồng cô ấy thì chồng bảo việc này là do vợ 

    số còn lại là 33 t họ chưa trả.

    Tôi muốn hỏi :

     - Như vậy làm thế nào để lấy nốt được số tiền trên

    - Người vợ là người liện hệ với tôi , nhưng chuyển tiền qua tài khoản của chồng thì người chồng có liên qua gì không.

    - Qua nhiều lần hẹn như vậy mà bên kia không thực hiện đúng thì như thế nào?

     
    5030 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #504244   09/10/2018
    Được đánh dấu trả lời

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Với câu hỏi trên, chúng tôi giải đáp như sau:

    Điều 354 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định như sau:

    “1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

    a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

    b) Lợi ích phi vật chất…”

    Theo đó:

    - Chủ thể - người có chức vụ, quyền hạn.

    - Lỗi: cố ý trực tiếp và động cơ: tư lợi.

    - Hành vi khách quan: là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kì hình thức nào theo quy định tại Điều 279 Bộ luật hình sự. Của hối lộ có thể là tiền, tài sản hoặc những lợi ích vật chất khác.

    - Hình thức hối lộ có thể là người phạm tội trực tiếp nhận từ người đưa hối lộ hoặc qua một hay nhiều người trung gian. Người đưa hối lộ và người trung gian sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hành vi của họ cấu thành các tội được quy định tại Điều 289 và Điều 290 Bộ luật hình sư.

    - Hành vi nhận hối lộ cấu thành tội nhận hối lộ khi của hối lộ có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lí kỉ luật về hành vi này hoặc đã bị kết án về một trong các tội được quy định từ Điều 278 đến Điều 284 mà còn vi phạm. Hậu quả nghiêm trọng là những thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, xã hội hoặc lợi ích chính đáng của công dân.

    Như vậy, nếu trong trường hợp của bạn, người vợ là người có chức vụ quyền hạn thì có thể bị truy cứu về tội nhận hối lộ theo quy định tại Khoản 1 Điều 354 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 (nhận hối lộ 80 triệu đồng). Nếu người chồng chứng minh được việc không biết hoặc không thỏa thuận với vợ về việc nhận hối lộ thì người chồng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự (vì chuyển tiền vào tài khoản của người chồng). Nếu người chồng không chứng minh được thì có thể bị truy cứu về tội này với vai trò là đồng phạm. Trong trường hợp này, bạn cũng có thể bị truy cứu về tội đưa hối lộ được quy định tại Khoản 1 Điều 364 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.

    Trong trường hợp người vợ không phải là người có chức có quyền thì người vợ có thể bị truy cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cụ thể:

    “Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

    b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

    c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;…”

     Theo thông tin bạn cung cấp thì 33 triệu người vợ vẫn chưa trả cho bạn, do vậy, người đó có thể bị truy cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 174 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017. Nếu người chồng biết về hành vi lừa đảo này (thỏa thuận với người vợ) thì người chồng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này nhưng với vai trò là đồng phạm. Còn nếu người chồng không biết về hành vi này thì người chồng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Để giải quyết vấn đề của bạn thì bạn nên là đơn tố cáo gửi lên cơ quan công an cấp huyện nơi người vợ cư trú, nếu không rõ nơi cư trú thì bạn gửi lên cơ quan công an nơi xảy ra hành vi phạm tội này.

    Luật sư: Nguyễn Thanh Tùng; Điện thoại: 0913586658

    Văn phòng luật sự Phạm Hồng Hải và Cộng sự - Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội;

    Email: luatsuthanhtung@gmail.com;

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn thanhtungrcc vì bài viết hữu ích
    nquangck (24/10/2018)
  • #509488   05/12/2018

    nquangck
    nquangck

    Sơ sinh

    Hà Giang, Việt Nam
    Tham gia:01/07/2012
    Tổng số bài viết (5)
    Số điểm: 85
    Cảm ơn: 5
    Được cảm ơn 1 lần


    Với câu hỏi trên, chúng tôi giải đáp như sau:

    Điều 354 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định như sau:

    “1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

    a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

    b) Lợi ích phi vật chất…”

    Theo đó:

    - Chủ thể - người có chức vụ, quyền hạn.

    - Lỗi: cố ý trực tiếp và động cơ: tư lợi.

    - Hành vi khách quan: là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kì hình thức nào theo quy định tại Điều 279 Bộ luật hình sự. Của hối lộ có thể là tiền, tài sản hoặc những lợi ích vật chất khác.

    - Hình thức hối lộ có thể là người phạm tội trực tiếp nhận từ người đưa hối lộ hoặc qua một hay nhiều người trung gian. Người đưa hối lộ và người trung gian sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hành vi của họ cấu thành các tội được quy định tại Điều 289 và Điều 290 Bộ luật hình sư.

    - Hành vi nhận hối lộ cấu thành tội nhận hối lộ khi của hối lộ có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lí kỉ luật về hành vi này hoặc đã bị kết án về một trong các tội được quy định từ Điều 278 đến Điều 284 mà còn vi phạm. Hậu quả nghiêm trọng là những thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, xã hội hoặc lợi ích chính đáng của công dân.

    Như vậy, nếu trong trường hợp của bạn, người vợ là người có chức vụ quyền hạn thì có thể bị truy cứu về tội nhận hối lộ theo quy định tại Khoản 1 Điều 354 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 (nhận hối lộ 80 triệu đồng). Nếu người chồng chứng minh được việc không biết hoặc không thỏa thuận với vợ về việc nhận hối lộ thì người chồng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự (vì chuyển tiền vào tài khoản của người chồng). Nếu người chồng không chứng minh được thì có thể bị truy cứu về tội này với vai trò là đồng phạm. Trong trường hợp này, bạn cũng có thể bị truy cứu về tội đưa hối lộ được quy định tại Khoản 1 Điều 364 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.

    Trong trường hợp người vợ không phải là người có chức có quyền thì người vợ có thể bị truy cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cụ thể:

    “Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

    b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

    c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;…”

     Theo thông tin bạn cung cấp thì 33 triệu người vợ vẫn chưa trả cho bạn, do vậy, người đó có thể bị truy cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 174 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017. Nếu người chồng biết về hành vi lừa đảo này (thỏa thuận với người vợ) thì người chồng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này nhưng với vai trò là đồng phạm. Còn nếu người chồng không biết về hành vi này thì người chồng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Để giải quyết vấn đề của bạn thì bạn nên là đơn tố cáo gửi lên cơ quan công an cấp huyện nơi người vợ cư trú, nếu không rõ nơi cư trú thì bạn gửi lên cơ quan công an nơi xảy ra hành vi phạm tội này.

     

     

    * Thân gửi luật sư cám ơn luật sư đã tư vấn và trả lời, nhưng tôi có 1 vài điều muốn hỏi

    - Đây là điều tôi muốn hỏi thêm luật sư

    1/ Theo như luật sư giải thích trong trường hợp này người vợ không có chức vụ quyền hạn gì, chỉ là kế toán của một công ty ở khu công nghiệp Bắc Thăng long

    2/ Theo như luật sư giải thích

    - Hình thức hối lộ có thể là người phạm tội trực tiếp nhận từ người đưa hối lộ hoặc qua một hay nhiều người trung gian. Người đưa hối lộ và người trung gian sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hành vi của họ cấu thành các tội được quy định tại Điều 289 và Điều 290 Bộ luật hình sư.

    Như vậy tôi cũng  là ngườitội à

    3/ Tháng 10/2018 người vợ này hẹn trả tôi xong vẫn ko trả , xong lại hẹn sang đầu tháng 11/2018, cuối tháng 11/2018 họ vẫn chưa trả,  tôi có giử tin nhắn qua điện toại để yêu cầu họ trả nốt tiền, họ gửi lại tin nhắn là hẹn vài ngày nữa , từ cuối tháng đến hôm nay là 5/12/2018 rồi họ vẫn chưa trả.

    Như vậy theo luật sư :

    - Nếu tôi làm đơn ra công an , khi xét sử tôi có bị phạm tội đưa hối lộ và bị xử lý như thế nào

    - Còn trường hợp người nhận tiền của tôi xử lý  như thế nào,

    - Luật sư giải thích người chồng chứng minh được Người chồng không biết về hành vi này thì người chồng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Nhưng hiện nay tôi vẫn còn hóa đơn chuyển tiền qua tài khoản của người chồng

    - ngày 20/8/2108 tôi đã về nói chuyện với chồng của cô ta , thì chồng cô ta bảo về nói chuyện với vợ sẽ thu xếp trả.

      Mong luật sư giải thích, tư vấn giúp

     
    Báo quản trị |  
  • #509577   07/12/2018

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Với vướng mắc trên, chúng tôi tư vấn cho bạn như sau:

    Trong trường hợp nhận tiền không liên quan đến chức vụ quyền hạn của người vợ (kế toán) thì người này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017:

    “1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

    b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

    c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

    d) Tái phạm nguy hiểm;

    đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;...

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

    Theo đó, người vợ sẽ bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm, ngoài ra người đó còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

    Vì người vợ có thể bị truy cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, không phải tội nhận hối lộ nên bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đưa hối lộ.

    Theo thông tin bạn cung cấp thì ngày 20/8/2108 bạn đã về nói chuyện với chồng của người kia, thì chồng  bảo về nói chuyện với vợ sẽ thu xếp trả và 5/12/2018 rồi họ vẫn chưa trả. Tuy nhiên nếu người chồng chứng minh được khi diễn ra hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản người chồng đó không biết thì người chồng sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự với vai trò là người đồng phạm. Nếu còn thắc mắc hoặc có các trường hợp vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn, các bạn hãy gọi 1900 6280 liên lạc với luật sư để được tư vấn cụ thể hơn nhé.

    Luật sư: Nguyễn Thanh Tùng; Điện thoại: 0913586658

    Văn phòng luật sự Phạm Hồng Hải và Cộng sự - Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội;

    Email: luatsuthanhtung@gmail.com;

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn thanhtungrcc vì bài viết hữu ích
    nquangck (11/12/2018)
  • #509867   11/12/2018

    nquangck
    nquangck

    Sơ sinh

    Hà Giang, Việt Nam
    Tham gia:01/07/2012
    Tổng số bài viết (5)
    Số điểm: 85
    Cảm ơn: 5
    Được cảm ơn 1 lần


    cảm ơn luật sư đã tư vấn

     
    Báo quản trị |  

Tư vấn của Luật sư có tính chất tham khảo, bạn có thể liên hệ trực tiếp với Luật sư theo thông tin sau:

Luật sư: Nguyễn Thanh Tùng; Điện thoại: 0913586658

Văn phòng luật sự Phạm Hồng Hải và Cộng sự - Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội;

Email: luatsuthanhtung@gmail.com;