Lãi xuất thực tế không giống như trong hợp đồng

Chủ đề   RSS   
  • #502673 20/09/2018

    hoaiduong82

    Male
    Chồi

    Nghệ An, Việt Nam
    Tham gia:12/09/2018
    Tổng số bài viết (69)
    Số điểm: 1335
    Cảm ơn: 15
    Được cảm ơn 26 lần


    Lãi xuất thực tế không giống như trong hợp đồng

    Chào luật sư. Xin luật sư tư vấn giúp tôi. Vừa rồi bạn tôi có vay tiền của người quen. Khi làm hợp đồng vay tiền thì trên hợp đồng ghi mức lãi suất là 1.5%/tháng. Những thu lãi thì lại thu 0.5%/ngày. Tức là 15%/ tháng. Nhưng cũng có thỏa thuận bằng miệng trước khi vay. Vậy nếu bạn tôi không trả khoản nợ trên thì có bị khởi kiện không. Và nếu khởi kiện thì hợp đồng đó có bị vô hiệu không và bên cho vay có bị khởi tố về cho vay nặng lãi không ạ. Xin cảm ơn luật sư.
     
    2674 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #502678   20/09/2018

    NguyenNhatTuan
    NguyenNhatTuan
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2009
    Tổng số bài viết (10494)
    Số điểm: 58149
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 4572 lần


    Chào bạn.

    Việc vay tiền này hai bên có làm hợp đồng vay và trong hợp đồng xác định lãi suất là 1,5%/tháng thì đây là căn cứ để hai bên thực hiện và cũng là cơ sở để giải quyết tranh chấp nếu hai bên không tự thương lượng hay giải quyết được.

    Luật sư không hiểu vì sao trong hợp đồng ghi 1,5%/tháng mà người đi vay lại phải trả 0,5%/ngày, tức đến 15%/tháng, tức lãi suất gấp 10 lần mức lãi suất đã thỏa thuận trong hợp đồng? không lẽ người đi vay không đọc hợp đồng hoặc không biết chữ???

    Tóm lại, như đã nói, mức lãi suất ghi trong hợp đồng la cơ sở để hai bên thực hiện và giải quyết tranh chấp vê sau. Do vậy, người đi vay có quyền ey6u cầu người cho vay phải tính lãi suất theo đúng thỏa thuận ghi trong hợp đồng, nếu đã thu lố, thư dư thì phải hoàn trả lại cho người đi vay hay cấn trừ tiếp vao tiền lãi cho thời gian phải trả phía trước. Nếu người cho vay không giải quyết đúng hợp đồng đã ký thì ngươi đi vay có quyền tạm ngưng thực hiện việc trả lãi và khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết .

    Thân mến

     

    Luật sư, Thạc sỹ Luật học NGUYỄN NHẬT TUẤN

    Trưởng văn phòng Luật sư PHÚ VINH - Đoàn Luật sư Tp. Hồ Chí Minh

    Địa chỉ: 332/42i Phan Văn Trị, P.11, Q.Bình Thạnh, TP.HCM

    ĐT liên hệ: 028.35160119; Di động: 0913.623.699

    Website: www.luatsuphuvinh.com;

    Email: nguyennhattuan71@yahoo.com

    nguyennhattuan040671@gmail.com

    Các lĩnh vực, công việc đảm nhận:

    - Tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý trong mọi lĩnh vực pháp luật;

    - Luật sư bào chữa, bảo vệ trong các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, lao động, thương mại, hôn nhân gia đình, thừa kế, tranh chấp đất đai, tài sản...;

    - Luật sư đại diện theo ủy quyền trong tố tụng, đại diện theo ủy quyền ngoài tố tụng liên quan đến pháp luật;

    - Thực hiện các dịch vụ pháp lý như: dự thảo đơn từ, văn bản, hợp đồng, di chúc, thỏa thuận...

    - Thực hiện các dịch vụ pháp luật khác...

    Chất lượng uy tín, chi phí hợp lý

     
    Báo quản trị |  
  • #502692   20/09/2018

    hoaiduong82
    hoaiduong82

    Male
    Chồi

    Nghệ An, Việt Nam
    Tham gia:12/09/2018
    Tổng số bài viết (69)
    Số điểm: 1335
    Cảm ơn: 15
    Được cảm ơn 26 lần


    Lãi xuất thực tế không giống như trong hợp đồng

    Dạ thưa luật sư. Lãi suất mà bên vay trả thực tế là 15%/tháng đó là đã thỏa thuận bằng miệng và đã đồng ý. Còn trong hợp đồng là ghi 1.5%/tháng thì bên vay cũng biết. Nhưng do đồng ý với lãi suất mà thực tế đã đóng cho bên cho vay. Vậy có kiện được bên cho vay không ạ. Cảm ơn luật sư.
     
    Báo quản trị |  
  • #502707   20/09/2018

    NguyenNhatTuan
    NguyenNhatTuan
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2009
    Tổng số bài viết (10494)
    Số điểm: 58149
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 4572 lần


    Chào bạn.

    Lãi suất ghi trong hợp đồng là bằng chứng cho sự thỏa thuận mà hai bên không thể chối cãi được còn lãi suất thỏa thuận miệng không có gì lam bằng chứng nếu bây giờ bên vay tiền phủ nhận và nói rằng họ đã thanh toán nhầm lẫn vê lãi suất nên bây giờ yêu cầu tính lại. Vì là thỏa thuận miệng không có gì làm bằng chứng nên nếu có tranh chấp mà khởi kiện thi tòa án cũng căn cứ vào lãi suất ghi trong hợp đồng để giải quyết.

    Thân mến

    Luật sư, Thạc sỹ Luật học NGUYỄN NHẬT TUẤN

    Trưởng văn phòng Luật sư PHÚ VINH - Đoàn Luật sư Tp. Hồ Chí Minh

    Địa chỉ: 332/42i Phan Văn Trị, P.11, Q.Bình Thạnh, TP.HCM

    ĐT liên hệ: 028.35160119; Di động: 0913.623.699

    Website: www.luatsuphuvinh.com;

    Email: nguyennhattuan71@yahoo.com

    nguyennhattuan040671@gmail.com

    Các lĩnh vực, công việc đảm nhận:

    - Tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý trong mọi lĩnh vực pháp luật;

    - Luật sư bào chữa, bảo vệ trong các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, lao động, thương mại, hôn nhân gia đình, thừa kế, tranh chấp đất đai, tài sản...;

    - Luật sư đại diện theo ủy quyền trong tố tụng, đại diện theo ủy quyền ngoài tố tụng liên quan đến pháp luật;

    - Thực hiện các dịch vụ pháp lý như: dự thảo đơn từ, văn bản, hợp đồng, di chúc, thỏa thuận...

    - Thực hiện các dịch vụ pháp luật khác...

    Chất lượng uy tín, chi phí hợp lý

     
    Báo quản trị |  
  • #502977   24/09/2018

    Chào bạn! Luật Hải Nguyễn xin tư vấn cho bạn như sau

    Theo như thông tin mà bạn cung cấp, lãi suất ghi trong hợp đồng và lãi suất thực thế là có sự chênh lệch nhau rất nhiều.

    Khi một hoặc các bên khởi kiện đến Toà án thì Toà án sẽ căn cứ vào hợp đồng mà các bên đã thoả thuận để ra phán quyết. Còn thoả thuận miệng về lãi suất là 15%/tháng Toà án sẽ không xem xét nếu như không có căn cứ cho rằng các bên đã thoả thuận. Trừ trường hợp trong các bản tự khai và trong phiên toà, hai bên đều thừa nhận việc đó là có thật.

    Trong trường hợp hai bên đều thừa nhận mức lãi suất 15%/tháng, tương đơng với 180%/ năm thì phần hợp đồng này sẽ bị vô hiệu. Theo quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về mức lãi suất cho vay như sau:

    1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.

    Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

    Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

    2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.

    Như vậy có thể thấy rằng, phần vượt quá mức lãi suất giới hạn (vượt quá 160%/năm) sẽ không có hiệu lực pháp luật, phần này của thoả thuận sẽ bị vô hiệu. Nếu tổng số tiền lãi suất mà bên vay đã trả cho bên cho vay vượt quá tổng số tiền gốc và tiền lãi theo quy định của BLDS thì bên cho vay phải trả lại số tiền còn dư cho bên vay, nếu bên vay đã trả đủ thì bên vay không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả tiền nữa.

    Còn nếu bên cho vay không công nhận đã thoả thuận mức lãi suất 15%/tháng, bên vay không chứng minh được rằng hàng tháng đã trả mức lãi suất là 15%/tháng thì Toà sẽ căn cứ vào hợp đồng mà các bên đã ký kết để ra phán quyết.

    Thứ hai, theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 thì tội cho vay nặng lãi được quy định cụ thể như sau:

    Điều 201. Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự

    1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

    2. Phạm tội mà thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

    Trên đây là tư vấn của Luật Hải Nguyễn. (NV HĐT)

    Công Ty Luật Hải Nguyễn và cộng sự - Hotline: 0973.509.636

    Website: www.lamchuphapluat.vn - Email: luathainguyen@gmail.com

     
    Báo quản trị |  

Tư vấn của Luật sư có tính chất tham khảo, bạn có thể liên hệ trực tiếp với Luật sư theo thông tin sau:

Luật sư, Thạc sỹ Luật học NGUYỄN NHẬT TUẤN - Đoàn Luật sư Tp. Hồ Chí Minh.

ĐT liên hệ: 0913.623.699 - Email: nguyennhattuan71@yahoo.com

Website: www.luatsuphuvinh.com