TAND tỉnh Lạng Sơn CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH LẠNG SƠN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số 31/2015/DS -PT
Ngày 24/6/2015
V/v: Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủyGCNQSDĐ
NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN - TỈNH LẠNG SƠN
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Chu Thị Nguyễn Phin
Các hội thẩm phán:
1. Bà Chu Thị Nguyễn Phin
2. Ông Chu Thế Vương
Thư kí tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Tạ Thị Hồng Trâm - cán bộ tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn.
Đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn: Bà Nguyễn Thị Khanh - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 24 tháng 6 năm 2015, tại trụ sở tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 26/2014/TLPT-DS ngày 22/7/2014, về việc Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 02/ 2014 / DS – ST ngày 09 tháng 6 năm 2014 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét sử số 49/ 2015 /QĐ-PT ngày 5 tháng 5 năm 2015, giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Ông Nguyễn Ngọc Dinh, sinh năm 1936
Trú tại: Tổ1, khối 5, Hợp Thành, Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn có mặt
2. Bị đơn: Chị Dương Thị Hằng, sinh năm 1983
Trú tại: Số 16, đường Văn Vỉ, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Ủy quyền cho ông Dương Xuân Tường, trú tại số nhà 61,khối 5, tổ1, Hợp Thành, Cao Lộc, Lạng Sơn, theo văn bản ủy quyền ngày 26/5/2014 có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Chu Khắc Mẫn - Luật sư văn phòng luật sư Cao Sơn - thuộc đoàn luật sư tỉnh Lạng Sơn có mặt.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
. - UBND huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn:
Người đại diện ủy quyền: bà Nguyễn Thị Hương, Phó Giám đốc Văn phòng đăng kí quyền sử dụng đất thuộc phòng TNMT huyện Cao Lộc, theo giấy ủy quyền số 75 / GUQ – UBND ngày 22/1/2013 của Chủ tịch UBND huyện Cao Lộc có mặt.
Bà Trần Thị Nụ( vợ ông Dinh), sinh năm 1946, có mặt.
Ông Dương Xuân Tuấn( bố đẻ chị Dương Thị Hằng), sinh năm 1959.
Người đại diện ủy quyền của ông Tuấn là ông Dương Xuân Tường, theo giấy ủy quyền ngày 29/11/2013, có mặt
Anh Nguyễn Thái Sơn( con ôn Dinh), sinh năm1973
Chị Nguyễn Thu Hằng( con ông Dinh) sinh năm 1968
Đều trú tại: Tổ1, khối 5,Hợp Thành, Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn có mặt.
4. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập:
- Ông Đoàn Năng Hùng, sinh năm 1965.
- Bà Hồ Thị Lan Anh( vợ ông Hùng), sinh năm 1969
Người đại diện theo ủy quyền của bà Lan Anh: ông Đoàn Năng Hùng theo giấy ủy quyền ngày 22/5/2013
- Ông Đoàn Năng Hoàng( con ông Hùng); sinh năm 1993
Người đại diện theo ủy quyền của ông Hoàng: Ông Đoàn Năng Hùng theo giấy ủy quyền ngày 24/ 2/ 2014
Ông Hùng, bà Lan Anh, ông Hoàng đều trú tại: Số 182 đường Trần Đăng Ninh, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn(ông Hùng có đơn xin xét xử vắng mặt).
4. Người kháng cáo: Ông Nguyễn Ngọc Dinh là nguyên đơn
5. Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn kháng nghị bản án sơ thẩm.
NHẬN THẤY
Theo bản án sơ thẩm của TAND huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn thì vụ án có nội dung như sau:
Ông Nguyễn Ngọc Dinh trình bày:
Năm 1996, tôi được nhà nước giao hồ sơ quản lí và sử dụng diện tích 0,12 ha đất rừng và đất trồng rừng ( sổ bìa xanh) thuộc lô 52 tại tổ 1,khối 5, Hợp Thành, Cao Lộc theo QĐ số 344/UB- QĐ ngày 13/9/1996 của UBND huyện Cao Lộc. Vị trí lô 52 phía phía tây giáp với lô 21 đất rừng của ông Vũ Văn Tân, ph ía đ ông gi áp l ô 22 đ ất r ừng c ủa ông Đo àn N ăng H ư ởng. Sau khi đ ư ợc nh à n ư ớc giao đ ất n ăm 1997 gia đ ình ông đ ã tr ồng thông tr ên di ện t ích đ ất đ ư ợc giao. Năm 2008 nhà nước đo lại để chuyển đổi từ hồ sơ bìa xanh sang giấy chứng nhận QSDĐ. Năm 2010 UBND huyện Cao Lộc đã cấp giấy chứng nhận QSDĐ( sổ đỏ) với diện tích là 4.099m2 cho hộ gia đình ông. Khi nhà nước mở rộng đường QL 4B đã thu hồi một phần di ện tích đất đồi khoảng 3000m2 và đã bồi thường tiền c ây cối, diện tích đất còn lại thuộc quyền sử dụng của gia đình ông. Ngày 7/6/2010 chị Dương Thị Hằng đến tranh chấp, dùng máy xúc bổ vào tà luy, san ủi thành mảnh đất dài 28m, sâu 11m và xây tường rào. Nay ông yêu c ầu bà Dương Thị Hằng phải trả lại số diện tích đất trên cho gia đình ông.
Bị đơn Dương Thị Hằng trình bày:
Mảnh đất chị san ủi hiện nay có nguồn gốc là của bà Nguyễn Thị Dung( bà nội chị đã chết năm 2008) đã khai phá từ năm 1970. Từ trước đ ến nay gia đình bà vẫn quản lí, sử dụng làm nhà, trồng thông, chuối, hồi, đu đủ… năm 1997 ông Dương Xuân Tường là chú ruột của chị Hằng còn đư ợc thuê ông Lô Văn Chang đến trồng cây cho gia đình và không có tranh ch ấp với ai. Sau đó bà Nguyễn Thị Dung chia cho ông Dương Xuân Tuấn( bố chị Hằng) phần đất trên một bên giáp đất nhà ông Nguyễn Ngọc Dinh, một b ên giáp đất đồi rừng của ông Đoàn Năng Hùng. Năm 2006, khi nhà nước c ải tạo QL 4B, danh sách được đền bù kiểm đếm lần 1 mang tên ông Dư ơng Xuân Tuấn thì ông Dinh không có ý kiến gì. N m 2008 kiểm đếm l n 2, b à Nguyễn Thị Dung chết bố chị là Dương Xuân Tuấn thì đi cải tạo không có ở nhà, nên ông Dinh mới đến tranh chấp vì vậy số tiền đền bù 300.000 đ hi ện nay vẫn chưa có ai nhận. Năm 2005 khi cơ quan chức năng xác định m ốc giới đối với thửa đất sẽ cấp cho ông Đoàn Năng Hùng thì bà Nguyễn Thị Dung là người được kí giáp ranh phía tây của thửa đất của ông Hùng, chứ không phải ông Dinh kí giáp ranh. Nay chị Hằng không đồng ý với yêu cầu c ủa ông Dinh vì nguồn gốc đất tranh chấp là của gia đình chị. Đồng thời chị Hằng yêu cầu Tòa án xử hủy một phần giấy chứng nhận QSDĐ do UBND huyện Cao Lộc cấp cho ông Dinh. Với lí do: năm 2008 gia đình ông Dinh và gia đình chị đã có tranh chấp, nhưng tháng 10 / 2010 UBND huyện Cao L ộc vẫn cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông Dinh với diện tích từ 1200m2 th ành 4.099m2 là không đúng quy định của pháp luật và cấp trùng vào diê ện tích đất gia đình tôi đang quản lí .
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: ông Đoàn N ăng Hùng cho rằng, khi nhà nước đo đ ạc để cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông Nguyễn Ngọc Dinh có đo lẫn sang phần đất của ông, hiện nay ph ần đất nằm trong diện tích mà ông Dinh và bà Hằng đang tranh chấp. Ông Hùng yêu cầu phần đất nào của ông đã được nhà nước cấp giấy chứng nh ận QSDĐ thì ông Dinh và bà Hằng không được tranh chấp. Ông Hùng đề nghị Tòa án hủy 1 phần giấy chứng nhận QSDĐ mà UBND huy n Cao Lộc đ ã cấp cho hộ ông Nguyễn Ngọc Dinh lẫn sang đất của ông.
Với nội dung nêu trên sau khi tiến hành hòa giải không thành TAND huyện Cao Lộc đã xử lần 1.
Tại bản án Dân sự sơ thẩm số 06/2013 DS- ST ngày 11/6/2013 của TAND huyện Cao Lộc đã quyết định:
1. Công nhận quyền quản lí sử dụng của hộ ông Nguyễn Ngọc Dinh đối với phần diện tích đ â ất 184,76m2( trong số 271,56m2 đất tranh chấp) tại thửa 731, tờ bản đồ địa chính xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc đã được UBND huyện Cao Lộc cấp giấy chứng nhận QSDĐ mang tên ông Nguyễn Ngọc Dinh và bà Trần Thị Nụ.
Áp dụng khoản 1, 2 điều 32a* Bộ luật tố tụng dân sự:
Hủy 1 phần diện tích đất là 86,8 m2 tại thửa 731, trong tổng số diện tích 4.099m2, thuộc tờ bản đồ địa chính số 01 xã Hợp Thành huyện Cao L ộc đo vẽ năm 2008 đã được UBND huy ện Cao Lộc cấp cho hộ ông Nguy ễn Ngọc Dinh và vợ là bà Trần Thị Nụ. Xác nhận diện tích bị hủy trên nằm t ại thửa đất số 246 tờ bản đồ địa chính số 57 xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc, thuộc quyền quản lí sử dụng của ông Đoàn Năng Hùng.
Ngoài ra bản án dân sự sơ thẩm còn tuyên về phần án phí, chi phí định giá và quyền kháng cáo theo quy đ ịnh của pháp luật.Trong hạn luật định, chị Dương Thị Hằng có đơn kháng cáo, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng S ơn có quyết định kháng nghị bản án dân sự sơ thẩm nêu trên với lí do: Bản án sơ thẩm xét xử không đúng quy định của pháp luật, việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số: 51/2013/DS_PT ngày 6/9/2013 của TAND tỉnh Lạng Sơn đã tuyên xử: Hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 06/2013/DS-ST ngày 11/6/2013 của TAND huyện Cao Lộc giải quyết lại theo quy định của pháp luật.
Với các lí do:
1. Về thu thập chứng cứ: Chưa xác định các phía tiếp giáp đất nhà ông Nguyễn Ngọc Dinh, phía đông có tiếp giáp với thửa 246 mang tên Đoàn Năng Hùng hay không? Thửa 725 và thửa 246 là 1 hay 2 thửa tách biệt, vấn đề này chưa được cấp sơ thẩm làm rõ.
2. Về xác định tư cách người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa ĐDUBND huyện khẳng định, bà Đoàn Thị Ninh đã được cấp GCNQSD Đ thửa 725 đến nay nhà nước chưa thu hồi, toàn bộ diện tích của thửa này nằm trong thửa 246 đã cấp cho ông Đoàn Năng Hùng... nên cần đưa bà Ninh vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
3. Cấp sơ thẩm chưa xác định diện tích đất thu hồi của ông Dinh bị thu hồi là bao nhiêu, vì theo ông Dinh năm 1996 ông được cấp 1200m2, năm 2008 đo chuyển từ bìa xanh sang bìa đỏ diện tích thực tế là 4.099m2... sự chênh lệch trên chưa được làm rõ.
4. Về thủ tục cấp GCNQSDĐ: Tại phiên tòa cũng như các tài liệu trong hồ sơ thể hiện diện tích đất tranh chấp xảy ra từ ngày 7/6/2010, nhưng ngày 27/10/2010 UBND huyện vẫn cấp GCNQSDĐ cho ông Dinh, vấn đề này cấp sơ thẩm chưa làm rõ.
5. Về bức tường chị Hằng xây bao quanh đất tranh chấp, cấp sơ thẩm không buộc chị Hằng tháo dỡ, như vậy là chưa giải quyết hết các quan hệ pháp lí trong vụ án.
6. Về chi phí định giá: Tại biên bản định giá ngày 22/5/2012 xác định các bên đương sự không thỏa thuận với nhau về giá, nhưng bản án lại buộc chị Hằng chịu toàn bộ chi phí định giá là trái với quy định của pháp luật.
Ngày 17/10/2013 c ủa TAND huyện Cao Lộc đã thụ lí lại vụ án" Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy CNQSDĐ" giữa nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc Dinh và bị đơn chị Dương Thị Hằng, để giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
Trong quá trình giải quyết vụ án: Ông Dinh cho rằng ranh giới giữa ông và ông Hùng là 2 cột điện cạnh QL 4B thẳng lên đỉnh đồi, chiều dài mặt đường đất đồi rừng của ông được cấp là hơn 40m, gia đình chị Hằng không có đất rừng, chỉ có diện tích đất ở đã bị thu hồi toàn bộ. Nay ông yêu cầu tòa án xét xử giữ nguyên như bản án dân sự sơ thẩm trước đây.
Quá trình giải quyết lại vụ án chị Dương Thị Hằng có đơn đề nghị tr ưng cầu giám định và xem xét thẩm định tại chỗ để xác định về diện tích, vị trí và ranh giới diện tích đất tranh chấp.
Tại công văn số 36 CV - VPĐKQSDĐ ngày 21/4/2014 của văn phòng ĐKQSDĐ thuộc sở TNMT tỉnh Lạng Sơn về việc cung cấp số liệu phục vụ xét xử vụ án tranh chấp QSDĐ, kết quả thực hiện cụ thể như sau:
1.Khu đất tranh chấp có vị trí:
- Phía bắc giáp QL 4B
- Phía nam giáp đất RST ông Vũ Văn Tân và đất rừng bà Nguyễn Thị Dung( theo bản đồ năm 1998)
- Phía đông giáp đất HNK ông Đoàn Năng Hùng cấp GCNQSDĐ năm 2005.
- Phía tây giáp nhà ông Nguyễn Ngọc Dinh xây năm 2010.
- Khu đất tranh chấp có diện tích 270,97m2
2. Diện tích tranh chấp:
Theo tờ bản đồ địa chính số 57, đo vẽ năm 1998 diện tích đất tranh chấp không nằm trong thửa 725 mang tên Đoàn Thị Ninh; nằm trong thửa 246 có diện tích 34,27m2, mang tên Đoàn Năng Hùng, số diện tích đất tranh chấp còn lại 236,7m2 giáp đất ông Vũ Văn Tân và đất bà Nguyễn Thị Dung, nằm trong thửa 154, sau khi tách thửa 246(154.1) cho anh Đoàn Năng Hùng thuộc tờ bản đồ số 57 địa chính xã Hợp Thành đo vẽ năm 2008.
Theo từ bản đồ địa chính đất lâm nghiệp số 01, đo vẽ năm 2008 thì diện tích đất đanh tranh chấp có diện tích 270,97m2, nằm 1 phần nhỏ trong thửa 731 diện tích 4.099m2 mang tên Nguyễn Ngọc Dinh.
3. Thửa đất 731 thuộc tờ bản đồ địa chính đất Lâm nghiệp, cấp cho ông Nguyễn Ngọc Dinh ngày 27/10/2010 trùng vào các thửa liền kề thuộc bản đồ địa chính số 57, đo vẽ năm 1998 xã Hợp Thành như sau:
+ Trùng vào thửa 196, diện tích 1.114,9m2
+ Trùng vào thửa 171, diện tích 716,39m2
+ Trùng vào thửa 154, diện tích 1.945,4 m2( trong đó trùng với thửa 246 là 731,6m2)
+ Trùng vào thửa 142, diện tích 106,48m2
+ Trùng vào thửa 141, diện tích 58,06m2
+ Trùng vào thửa 153, diện tích 64,68m2
+ Trùng vào thửa 109, diện tích 93,09m2
Ý kiến của UBND huyện Cao Lộc: Diện tích đất tranh chấp nằm trong thửa 154, tờ bản đồ số 57 xã Hợp Thành huyện Cao Lộc đo vẽ năm 1998. Năm 2008, đo đạc bản đồ đất Lâm nghiệp được đo tách 1 phần của thửa 154 thành thửa số 731, tờ bản đồ số 01 bản đồ địa chính xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc, Thửa đất 731 UBND huyện Cao Lộc đã cấp giấy chứng nh ận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông Nguyễn Ngọc Dinh và vợ là bà Trần Thị Nụ, trú tại tổ 1, khối 5, xã Hợp Th ành, huyện Cao Lộc diện tích là 4.099m2.
Ngày 26/5/2008 ông Nguyễn Ngọc Dinh có đơn xin cấp giấy chứng nh ận QSDĐ. Quá trình cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông Dinh đã được UBND xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc niêm yết công khai, đúng quy định và các hộ không có khiếu nại gì. UBND huyện Cao Lộc khẳng định việc cấp gi ấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ ông Nguyễn Ngọc Dinh là đúng đối tượng, đúng trình tự, thủ tục và c ác quy định của pháp luật về đất đai. Tuy nhiên, khi đo đạc để cấp có đo l ẫn một phần diện tích đất trong thửa 246 đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông Đoàn Năng Hùng vào năm 2005. Phần đất đo lẫn này nằm trong giấy chứng nhận QSDĐ của ông Dinh và hiện nay phần đất đo lẫn n ày đang nằm trong diện tích đất tranh chấp giữa ông Nguyễn Ngọc Dinh và chị Dương Thị Hằng. Đề nghị Tòa án hủy phần đất cấp chồng này, UBND huyện không có ý kiến gì. UBND huyện Cao Lộc sẽ thu hồi giấy chứng nh ận QSDĐ đã cấp cho ông Dinh và cấp lại sau khi Tòa án giải quyết tranh chấp xong.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Bà Trần Thị Nụ, chị Nguyễn Thị Hằng, anh Nguyễn Thái Sơn giữ nguy ên lời khai và cùng quan điểm với ông Nguyễn Ngọc Dinh.
Ông Dương Xuân Tuấn và người đại diện theo ủy quyền là ông Dư ơng Xuân Tường trình bày: Đất rừng đồi nhà ông Dinh chỉ tiếp giáp với đất nhà ông Vũ Văn Tân và tiếp giáp với đất nhà ông Dương Xuân Tuấn, kh ông tiếp giáp với đất rừng đồi của Đoàn Năng Hùng. Còn về diện tích đất đ ất tranh chấp hiện nay có nguồn gốc là của bà Dung( mẹ ông), năm 1997 gia đình ông có thuê ông Lô Văn Chang trồng các c ây thông, hồi trên toàn bộ diện tích đất của gia đình. Trong đó có diện tích đất tranh chấp hiện nay, ông đề nghị Tòa án hủy giấy chứng nhận QSDĐ mà cơ quan có thẩm quy ền đã cấp cho ông Nguyễn Ngọc Dinh.
Ông Đoàn Năng Hùng trình bày bổ sung: Thửa đất số 725 đã cấp cho bà Đoàn Thị Ninh ở trên đỉnh đồi không liên quan đến thửa đất tranh chấp giữa ông Dinh và bà Hằng, khi bà Hằng đến san ủi có san ủi cả phần đất của ông nên ông đã ngăn cản nhưng bà Hằng vẫn tiếp tục san ủi và xây tường rào lẫn sang phần đất của ông, nay ông yêu cầu bà Hằng, ông Dinh không được tranh chấp phần diện tích đất đã được nhà nước cấp cho ông.
Bà Đoàn Thị Ninh trình bày: Thửa đất số 725 cơ quan chuyên môn đã cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho riêng hộ gia đình bà, không liên quan gì đến thửa đất 246 đã cấp cho ông Đoàn Năng Hùng và không liên quan gì đến diện tích đất tranh chấp. Bà đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt vì không liên quan gì đến bà.
Với nội dung nêu trên Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc đã tiến hành hòa gi ải giữa các bên đương sự, nhưng có kết quả; Tại bản án dân sự sơ thẩm số 02/2014/DS – ST ngày 9/6/2014 của TAND huyện Cao Lộc đã quyết định;
Áp dụng điều 32; khoản 4 điều 50; khoản 1 điều 105 luật Đất đai 2003 và điều 688 Bộ luật dân sự; các điều 177, 220 Bộ luật tố tụng dân sự.
1. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; chị Dương Thị Hằng trả l ại cho ông Đoàn Năng Hùng diện tích 34,27m2, chị Hằng có trách nhiệm tháo dỡ bức tường có trên diện tích đất tranh chấp.
2. Xử bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc Dinh vì không có căn c ứ.
Tạm giao diện tích đất tranh chấp 236,7m2 cho chị Dương Thị Hằng được quản lí sử dụng ;
Áp dụng khoản 1, điều 8 NĐ 181 ; Điểm b,c khoản 3 điều 14, NĐ 88/ 2009 của Chính phủ, khoản 1,2 điều 32a Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011.
3. Tuyên hủy một phần giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và tài sản kh ác gắn liền với đất thửa 731, tờ bản đồ số 01, đo vẽ năm 2008 tại Núi Đầu, khối 5, xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn diện tích 4.099m2, do UBND huyện Cao Lộc cấp ngày 27/10/2010 mang tên hộ ông Nguyễn Ngọc Dinh và bà Trần Thị Nụ.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí, thẩm định, trưng cầu giám định, định giá tài sản và tuyên quyền kháng cáo đối với các đương sự theo quy định của pháp luật.
Không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm ngày 23/6/2014 ông Nguyễn Ngọc Dinh kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm yêu cầu:
1.Hủy bản án sơ thẩm số 02/2014/DSST ngày 9/6/2014 của TAND huyện Cao Lộc.
2. Công nhận quyền quản lí sử dụng đối với 271,56m2 đất tranh chấp thuộc thửa 731, tờ bản đồ số 01 xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn cho ông Nguyễn Ngọc Dinh.
3. Buộc bà Dương Thị Hằng phải chịu toàn bộ số tiền chi phí thẩm định, định giá tài sản và án phí.
Tại phiên tòa phúc thẩm ông Nguyễn Ngọc Dinh rút 1 phần kháng cáo, cụ thể: Ông Dinh chỉ yêu cầu Tòa án công nhận quyền quản lí sử dụng đối với 236,7m2 đất tranh chấp thuộc thửa 731, tờ bản đồ số 01 xã Hợp Thành huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn cho ông Nguyễn Ngọc Dinh.
Tại quyết định kháng nghị số 20/QĐ – KNPT P5 ngày 20/7/2014 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn đề nghị xử hủy bản án dân sự số 02/2014/DSST ngày 9/6/2014 của TAND huyện Cao Lộc. Với lí do:
1. Việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ theo quy định tại điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự.
2. Việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự quy định tại điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự là không đảm bảo căn cứ, trái với quy định của pháp luật.
3. Chưa xem xét giải quyết hết các yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Tại phiên tòa phúc thẩm; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên nội dung kháng nghị.
Ý kiến của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị Dương Thị Hằng cho rằng: Về nguồn gốc đất tranh chấp là của gia đình chị Dương Thị Hằng quản lí và canh tác liên tục từ năm 1970 đến năm 2008 không có tranh chấp, nhà nước chưa có thu hồi đất đó, nhưng UBND huyện Cao Lộc đã đem đất đó cấp cho hộ gia đình ông Dinh là trái quy định của pháp luật. Vì đất cấp cho ông Dinh đã cấp trùng lên cả 7 thửa khác. Hơn nữa khi cấp sổ cho ông Dinh năm 2010 thì đất đó đang có tranh chấp, UBND huyện Cao Lộc thừa nhận đã vi phạm Điều 50 của Luật đất đai năm 2003.
Về việc UBND huyện Cao Lộc cấp giấy chứng nhận QSD Đ cho ông Dinh chỉ dựa vào đơn đề ngày 26/5/2008 của ông Dinh, mà không tổ chức xem xét theo quy định để cấp đồi 1.200m2 đất trồng rừng năm 1996 thành 4.099m2 đất sổ đỏ ngày 27/10/2010 cho ông Dinh là trái quy định của pháp luật. Vì đất cấp cho ông Dinh đã cấp trùng lên cả 7 thửa khác, Hơn nữa khi cấp sổ cho ông Dinh năm 2010 thì đất đó đang có tranh chấp, UBND huyện Cao Lộc thừa nhận đã vi phạm Điều 50 của luật đất đai năm 2003. Từ đó luật sư đề nghị:
1.Hội đồng xét xử hủy toàn bộ giấy chứng nhậnQSDĐ của ông Nguyễn Ngọc Dinh đã được UBND huyện Cao Lộc cấp tại thửa số 731 diện tich 4.099m2.
2. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc Dinh vì đất tranh chấp do gia đình chị Hằng đã sử dụng từ năm 1970.
3. Đề nghị tạm giao số đất tranh chấp cho Dương Thị Hằng quản lí.
Ý kiến phát biểu của kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của bộ luật tố tụng dân sự về thủ tục xét xử phúc thẩm, phạm vi xét xử phúc thẩm, các đương sự đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại các điều 58, 59, 60, 61, 63 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: kháng cáo, kháng nghị
Xét kháng cáo của ông Nguyễn Ngọc Dinh được viết trong hạn luật định nên được coi là hợp lệ:
Về nội dung kháng cáo của nguyên đơn đòi quản lí sử dụng toàn bộ diện tích đất tranh chấp, cần chấp nhận 1 phần bởi vì theo lời khai của ông Vũ Văn Tân thì toàn bộ diện tích đất rừng sau đồi nhà ông Dương Xuân Tuấn đã được giao cho ông Nguyễn Ngọc Dinh từ năm 1996 và ông Dinh đã được UBND huyện cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Theo lời khai của ông Tân thì tại thời điểm năm 1996 gia đình bà Nguyễn Thị Dung neo người, ông Dương Xuân Tường đi bộ đội, ông Dương Xuân Tuấn đi tù, em gái còn nhỏ nên bà Dung mới không nhận đất. Mặt khác trong diện tích 66m2 của gia đình ông Tuấn bị thu hồi thì chỉ có cây thông và chuối chứ không có cây hồi nào, như lời khai của ông Lô Văn Chang là có được trồng thông, hồi ở diện tích đất sau nhà ông Tuấn. Phía bị đơn cho rằng diện tích đất tranh chấp thuộc quyền quản lí, sử dụng của mình nhưng không đưa ra được căn cứ chứng minh.
Còn việc ông Dinh kháng cáo yêu cầu quản lí toàn bộ diện tích đất tranh chấp là không có căn cứ, vì 34,27m2 đất tranh chấp nằm trong giấy chứng nhận QSD Đ của ông Đoàn Năng Hùng.
Ông Dinh yêu cầu chị Hằng chịu toàn bộ án phí và chi phí định giá là không có căn cứ, vì các bên đương sự không thống nhất được về giá nên yêu cầu Hội đồng định giá, căn cứ điều 142 của Bộ luật tố tụng dân sự thì mỗi bên phải chịu ½ số tiền chi phí thẩm định, định giá.
- Về kháng nghị của viện kiểm sát:
Việc thu thập chứng cứ: Bản án sơ thẩm chưa thu thập được đầy đủ chứng cứ, cụ thể chưa xác định được lô 52 cấp cho ông Dinh thuộc vị trí nào của thửa 731, diện tích lô 52 đã bị thu hồi là bao nhiêu? Tuy nhiên quá trình giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm đã tiến hành khắc phục bổ sung tại công văn trả lời của UBND huyện Cao Lộc ngày 7/4/2015 trả lời Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn, do vậy kháng nghị của viện kiểm sát là có căn cứ.
Việc Tòa án cấp sơ thẩm công nhận sự thỏa thuận giữa ông Hùng với chị Hằng, về việc chị Hằng trả lại cho ông Hùng diện tích 34,27m2 là không đảm bảo được quyền lợi của đương sự, vì diện tích đó ông Dinh và chị Hằng còn đang tranh chấp. Mặt khác tòa án cấp sơ thẩm chưa giải quyết hết yêu cầu của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cụ thể ông Hùng có yêu cầu Tòa án xử hủy 1 phần giấy chứng nhận QSD Đ của ông Dinh, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét vấn đề này,tuy nhiên ông Hùng không kháng cáo và tại phiên tòa phúc thẩm ông Dinh, chị Hằngcũng xác định không tranh chấp diện tích 34,27m2 đất nằm trong giấy chứng nhận QSD Đ của ông Đoàn Năng Hùng, do vậy cấp phúc thẩm cần tuyên bổ sung vấn đề này cụ thể chấp nhận yêu cầu của ông Đoàn Năng Hùng về việc hủy một phần giấy chứng nhận QSDĐ của ông Nguyễn Ngọc Dinh về phần diện tích đất cấp trùng có tranh chấp.
Từ những phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 điều 275 của Bộ luật tố tụng dân sự; sửa bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, chấp nhận 1 phần kháng các của ông Nguyễn Ngọc Dinh và chấp nhận kháng nghị của viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn.
XÉT THẤY
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luật tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của các đương sự; kiểm sát viên; Hội đồng xét xử nhận định:
Về thủ tục tố tụng:
Tại phiên tòa hôm nay vắng mặt ông Đoàn Năng Hùng( là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập) đã có đơn đề nghị xử vắng mặt.Căn cứ khoản 1 điều 202 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt
Đối với bà Đoàn Thị Ninh vắng mặt tại phiên tòa, nhưng bà Ninh không kháng cáo nên việc bà Ninh vắng mặt không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án.
Về quan hệ pháp luật: Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật: “ Tranh chấp QSD Đ và yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSD Đ” là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
Về vị trí và diện tích đất tranh chấp:
1. Vị trí khu đất tranh chấp
- Phía bắc giáp QL 4B
- Phía nam giáp đất RST ông Vũ Văn Tân và đất rừng bà Nguyễn Thị Dung( theo bản đồ năm 1998)
- Phía đông giáp đất HNK ông Đoàn Năng Hùng cấp GCNQSDĐ năm 2005.
- Phía tây giáp nhà ông Nguyễn Ngọc Dinh xây năm 2010.
2. Về diện tích: Khu đất tranh chấp có diện tích 270,97m2
Về nguồn gốc đất tranh chấp:
Ông Dinh và chị Hằng đều cho rằng diện tích đất tranh chấp thuộc gia đình quản lí sử dụng và đưa ra các căn cứ chứng minh như sau: Ph ía ông Dinh cho rằng đất tranh chấp thuộc lô 52. Năm 1996 khi nhà nư ớc giao đất rừng đồi cho hộ gia đình, cá nh n quản lí, lúc này bà Nguy ễn Thị Dung không nhận đất nên ông đã được giao sử dụng cả phần đ ất sau nhà bà Dung lên đến đỉnh đồi, và được cấp giấy chứng nhận QSDĐ( sổ bìa xanh) diện tích 1200m2 đến ngày 27/10/2010 được cấp đ ổi lại( sổ bìa đỏ) có diện tích đất 4.099m2 có người làm chứng là ông V ũ Văn Tân lúc đó là khối trưởng được ra thực địa chỉ cho ông ranh giới và ông đã được UBND huyện cấp giấy chứng nhận QSDĐ đúng quy đ ịnh của pháp luật.
Về phía chị Dương Thị Hằng có đưa ra các căn cứ chứng minh là đất đó bà Nguyễn Thị Dung tự khai phá và qu n lí từ năm 1970 đến nay không có tranh chấp cụ thể.
Tại đơn trình bày việc giải quyết tranh chấp ngày 27/6/2010 của ông Dương Xuân Tường đã nêu rõ về nguồn gốc đất tranh chấp là do gia đình khai phá có xác nhận của ông Mai Văn Cao( khối trưởng). Quá trình giải quyết vụ án chị Dương Thị Hằng xuất trình các căn cứ. Ảnh ch ụp toàn ngôi nhà( trước khi nhà nước thu hồi) và các cây cối khác như h ồi, thông… trồng từ năm 1997( BL.398)
Biên bản ngày 22/11/2004 về việc xác định ranh giới, mốc giới tại thực địa đối với thửa đất sẽ cấp cho ông Đoàn Năng Hùng là bà Nguy ên Thị Dung( bà nội của chị Hằng) và ông Vũ Văn Tân chứ không phải giáp với đất đồi của ông Dinh. Đồng thời việc gia đình chị Hằng quản lí đất liên tục còn được chứng minh bằng các tài liệu về việc thu hồi đất v à tài sản gắn liền với đất, thời kì( 2006 – 2008) mở rộng đường QL 4B. Cụ thể ngoài việc thu hồi, bồi thường toàn bộ đất ở, nhà nước còn thu h ồi thêm 66m2 đất trồng rừng do gia đình chị Hằng khai phá quản lí sử d ụng từ trước năm 1993 và đền bù 20 cây sa mộc đường kính dưới 10cm + 7 hốc chuối( BL 422 – 418)
Bồi thường đợt 2: khi nhà nước mượn 1 số diện tích đất có rừng v à bồi thường 300.000 đ tiền cây trên đất, để thi công QL 4B( BL 71 – 222) lúc này ông Dinh mới đến tranh chấp với chị Hằng, với lí do ông Dinh cho rằng gia đình chị chỉ có đất ở, nhưng đã bị thu hồi hết vào năm 2006.
Người làm chứng ông Lô Văn Chang xác định; trong thời gian năm 1997 vợ chồng ông được vợ chồng ông Dương Xuân Tường thuê phát và đào hố trồng các cây hồi, thông.Vị trí đất trồng các cây hồi, thông ngay sau nhà của ông Dương Xuân Tuấn, thời gian trồng cây là 1 th áng trong quá trình trồng cây không có ai có ý kiến gì. Hiện nay số cây thông sau nhà ông Tuấn, nhà nước đã san ủi, bạt tà luy làm đường 1 s ố cây thông, hồi ở phía trên tà luy vẫn còn( BL 462).
Đồng thời tại công văn số 451/CV – UBND ngày 7/4/2015 của UBND huyện Cao Lộc phúc đáp công văn của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn về việc xác minh nguồn gốc và qúa trình sử dụng đất của 2 hộ; ông Vũ Văn Tân và bà Nguyễn Thị Dung đã được xác định.
- Ông Vũ Văn Tân sử dụng đất Lâm nghiệp tiếp giáp với lô đất tranh chấp có nguồn gốc tự khai phá năm( 1996 – 1997). Sử dụng từ năm 1997( trồng thông) ổn định, không có tranh chấp, năm 2010 đã được c ấp giấy chứng nhận QSDĐ.
- Bà Nguyễn Thị Dung nguồn gốc sử dụng đất tự khai phá, sử d ụng từ năm 1997.( BL 647).
Như vậy. thực tế cho thấy, đất rừng, đồi phía sau nhà bà Dung v ẫn do gia đình bà Dung quản lí, sử dụng từ trước đến nay. Lời khai của chị Hằng và ông Tuấn, ông Tường là phù hợp với lời khai của ông Lô V ăng Chang cùng với các tài liệu chứng cứ thu thập được. Như biên bản xác định ranh giới, mốc giới, mốc giới thửa đất cấp cho ông Đoàn Năng Hùng, biên bản kiểm đếm, bồi thường thiệt hại… Do đó bản án sơ thẩm của TAND huyện Cao Lộc đã xử bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguy ễn Ngọc Dinh là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
Việc cơ quan kiểm lâm giao 1200m2 đất trồng rừng cho hộ ông Dinh năm 1996 là trái với quy định tại khoản 3 điều 4 và khoản 1, khoản 5 điều 14 của Quy định về việc giao đất Lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp( ban h ành kèm theo nghị định số/ CP ngày 15/1/1994); qua kiểm tra hồ sơ giao đất mà UBND huy n Cao Lộc cung cấp thì thấy rằng;
Theo quy định nêu trên thì việc giao đất lâm nghiệp phải có đơn xin giao đất lâm nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được UBND xã, phường, thị trấn nơi cư trú xác nhận.
Theo các điều khoản quy định trên thì việc giao nhận đất phải có” bi ên bản giao nhận đất lâm nghiệp tại hiện trường” và phải được” cắm m ốc giới trên thực địa, đánh dấu vị trí trên bản đồ và tính được diện tích”.
Nhưng thực tế không có biên bản giao nhận đất lâm nghiệp tại hiện trường và không có việc cắm mốc giới trên thực địa, đánh dấu vị trí trên bản đồ và tính được diện tích.
Mà chỉ có biên bản giao nhận tại trụ sở UBND xã Hợp Thành giữa đ ại diện bên giao là hạt kiểm lâm, giao cho người nhận là khối trưởng kh ối 5, chứ không phải giao cho ông Dinh( BL 11 – 162).
* Việc UBND huyện cấp đổi từ 1200m2 đất bìa xanh thành 4099m2 bìa đỏ năm 2010 cho ông Dinh không đúng quy định của pháp luật; vì việc tranh chấp trên đã diễn ra từ năm 2008 đến 7/6/2010 khi chị Hắng san ủi đất thì ngày 9/6/2019 ông Dinh đã có đơn đề nghị UBND huyện Cao Lộc giải quyết tranh chấp, nhưng ngày 27/10/2010 UBND huyện Cao Lộc vẫn cấp giấy chứng nhận QSD Đ cho ông Dinh là trái với quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai.
Mặt khác, theo trích đo bản đồ địa chíng khu đất do Văn phòng đăng kí QSD Đ thuộc Sở TNMT tỉnh Lạng Sơn thẩm định thì thửa đất số 731 có diện tích 4.099m2 cấp cho ông Dinh ngày 27/10/2010 đã cấp trùng vào 7 thửa đất khác là các thửa 196; 171; 154; 142; 141; 153; 109 trong đó có tất cả đất do gia đình chị Hằng khai phá, quản lí, sử dụng từ trước năm 1993 đến nay.
Việc cấp trùng này UBND huyện Cao Lộc tại phiên tòa phúc thẩm đã có ý kiến và đề nghị tòa án xử hủy 1 phần cấp trùng vào thửa 246 của hộ ông Đoàn Năng Hùng mà hiện nay các bên có tranh chấp. Phần còn lại UBND huyện sẽ thu hồi giấy chứng nhận QSD Đ của hộ ông Dinh để cấp lại theo đúng hiện trạng sử dụng, sau khi giải quyết xong vụ án.
Xét kháng cáo của ông Nguyễn Ngọc Dinh; Yêu cầu tòa cấp phúc thẩm công nhận quyền quản lí, sử dụng của ông đối với diện tích đất tranh chấp là 236,7m2; Thấy rằng tại phiên tòa phúc thẩm ông Dinh không đưa ra được tài liệu chứng cứ nào có căn cứ pháp lí để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình, do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Ngọc Dinh.
Đối với kháng nghị của viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn:
- Về thu thập chứng cứ; Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành thu thập các chứng cứ, tài liệu theo quy định tại điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự, tuy nhiên cấp sơ thẩm chưa làm rõ được theo yêu cầu của bản án phúc thẩm trước đây về việc xác định vị trí lô 52 của ông Dinh nằm ở vị trí nào của thửa 731 hiện nay và diện tích đã bị thu hồi của lô 52 là bao nhiêu, còn lại bao nhiêu…? vấn đề này cấp phúc thẩm đã thu thập bổ sung và được UBND huyện trả lời bằng văn bản ngày 7/ 4 / 2015 cụ thể:” Đối với lô 52 có diện tích 0,12ha; do hồ sơ giao đất lâm nghiệp không có tọa độ điểm, không có bản đồ số nên không xác định được vị trí lô 52 thuộc vị trí nào của thửa 731; Nên việc xác định thu hồi đất đến đâu? diện tích lô 52 còn không? phần còn lại của lô 52 thuộc vị trí nào của thửa 731 UBND huyện cũng không xác định được.”(BL 642)
Về việc tòa án cấp sơ thẩm công nhận sự thỏa thuận của các đương sự:Chị Dương Thị Hằng trả lại cho ông Đoàn Năng Hùng 34,27m2 đất mà chị Hằng và ông Dinh còn đang tranh chấp là không đảm bảo quyền lợi của đương sự. Tuy nhiên tại biên bản làm việc ngày 20/4/2015 tại TAND tỉnh Lạng Sơn, và tại phiên tòa hôm nay ông Dinh, chị Hằng nhất trí giao cho ông Hùng quản lí sử dụng diện tích 34,27 m2 vì phần đất này nằm trong giấy chứng nhậnQSD Đ của ông Hùng. Tòa cấp phúc thẩm thấy rằng cần công nhận quyền quản lí sử dungh diện tích 34,27m2 cho ông Đoàn Năng Hùng theo giấy chứng nhận QSDĐ đã được UBND huyện Cao Lộc cấp cho ông Đoàn Năng Hùng.
- Đối với kháng nghị của viện kiểm sát về việc bản án sơ thẩm chưa giải quyết hết yêu cầu của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, ông Hùng có yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận QSD Đ mà UBND huyện Cao Lộc đã cấp cho ông Dinh lấn sang phần đất của ông. Vấn đề này cấp phúc thẩm thấy rằng; Về bản chất vụ án thì tòa án đã xem xét đến yêu cầu độc lập của ông Hùng chính vì vậy đã tuyên hủy 1 phâng giấy chứng nhận QSD Đ đã cấp cho ông Dinh. Tuy nhiên bản án sơ thẩm có thiếu sót là không ghi cụ thể tại phần quyết định của bản án là chấp nhận yêu cầu của ông Hùng về việc hủy 1 phần giấy chứng nhận QSD Đ do UBND huyện Cao Lộc đã cấp ngày 27/10/2010 cho hộ ông Dinh, xét về bản chất vụ án không có gì thay đổi, hơn nữa tại phiên tòa ông Dinh, chị Hằng cũng không tranh chấp phần đất nằm trong giấy chứng nhận QSD Đ của ông Hùng nữa, ông Đoàn Năng Hùng cũng không có kháng cáo, những sai sót trên của tòa án cấp sơ thẩm chưa đến mức vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, tại phiên tòa phúc thẩm có thể bổ sung được theo đề nghị của viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm là có căn cứ. Tuy nhiên cấp sơ thẩm cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.
Từ những nhận định trên Hội đồng xét xử chấp nhận 1 phần kháng nghị của viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn, sửa 1 phần bản án dân sự sơ thẩm số 02/2014/DS – ST ngày 9/6/2014 của tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn theo hướng đã phân tích ở trên.
Về án phí: Án phí sơ thẩm: ông Dinh phải chịu án phí có nghạch giá theo quy định của pháp luật. Cụ thể diện tích đất tranh chấp là 236,7 m2x 2.800.000đ= 662.760.000đ. Mức án phí phải nộp là 20.000.000 + 4% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 400.000.000đ là( 262.760.000.000đ x 4% = 10.510.000đ + 20.000.000đ) = 30.515.000đ được khấu trừ vào tiền án phí mà ông Dinh đã nộp là 200.000đ. Số tiền còn lại ông Dinh phải nộp tiếp là 30. 310.000đ( Ba mươi triệu ba trăm mười nghìn đồng).
Số tiền chi phí thẩm định và định giá tài sản do các bên đương sự không thỏa thuận được về giá đất, mà yêu cầu Hội đồng định giá, chi phí cho thẩm định, định giá hết 9.200.000đ( cả sơ thẩm lần 1 ngày 11/6/2013) ông Hùng tự nguyện chịu 2.000.000đ, số tiền còn lại ông Dinh và chị Hằng mỗi người phải chịu 3.600.000đ. Số tiền thực tế các đương sự đã nộp 2.000.000đ; chị Hằng đã nộp 3.700.000đ, lẽ ra ông Dinh còn phải trả lại cho chị Hằng 100.000đ. Nhưng tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm(ông Tường là người đại diện theo ủy quyền của chị Hằng) không yêu cầu ông Dinh trả, nên cần chấp nhận sự tự nguyện của đương sự.
Do yêu cầu của ông Đoàn Năng Hùng được chấp nhận, lẽ ra ông Hùng không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nhưng tại phiên hòa giải ông Hùng, chị Hằng tự nguyện mỗi người chịu 1.200.000đ án phí do đó Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của các đương sự.
Án phí phúc thẩm: Do sửa 1 phần bản án sơ thẩm nên ông Nguyễn Ngọc Dinh không phải chịu án phí phúc thẩm.
Từ những nhận định trên;
Căn cứ khoản 2 điều 275 của bộ luật tố tụng dân sự.
QUYẾT ĐỊNH
Chấp nhận 1 phần kháng nghị của viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn, không chấp nhận phần kháng cáo của ông Nguyễn Ngọc Dinh; sửa 1 phần bản án dân sự sơ thẩm số 02/ 2014/ DS – ST ngày 9/6/2014 của tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn cụ thể:
Áp dụng điều 32, khoản 4 điều 50; khoản 1 điều 105 Luật đất đai năm 2003 và điều 688 của Bộ luật dân sự; điều 177; điều 220 của Bộ luật tố tụng dân sự.
1. Công nhận quyền quản lí, sử dụng diện tích 34,27 m2 đất thuộc 1 phần thửa số 246( 154,1) tờ bản đồ số 57 bản đồ địa chính xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đo vẽ năm 1998 của hộ ông Đoàn Năng Hùng. Theogiấy chứng nhận QSD Đ do UBND huyện Cao Lộc cấp cho hộ ông Đoàn Năng Hùng ngày 28/3/2005. Diện tích đất có các cạnh BCDE, trong đó cạnh BC dài 3,06m, BE dài 13,58m; cạnh CD dài 12,52m và 1,1m; cạnh DE dài 1,76m. Chị Dương Thị Hằng có trách nhiệm tháo dỡ bức tường trên diện tích đất tranh chấp( có trích đo địa chính khu đất kèm theo).
Áp dụng điều 32, khoản 4 điều 50, khoản 1 điều 105, khoản 1 điều 136 của luật đất đai năm 2003 sửa đổi năm 2009, điều 176 của bộ luật tố tụng dân sự và các điều 192, 193, 255, 688 của bộ luật dân sự 2005.
2. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc Dinh yêu cầu chị Dương Thị Hằng phải trả lại cho ông Dinh 236,7m2 đất rừng sản xuất thuộc 1 phần thửa đất 154, tờ bản đồ số 57, địa chính xã Hợp Thành đo vẽ năm 1998, tại Km1 + 500, khối 5 Hợp Thành, Cao Lộc, Lạng Sơn vì không có căn cứ.
Tạm giao diện tích đất 236,7m2( mà chị Hằng đã san ủi) tại Km1 + 500, khối 5 Hợp Thành, Cao Lộc thuộc 1 phần thửa đất 154, tờ bản đồ số 57, địa chính xã Hợp Thành đo vẽ năm 1998, khu đất có vị trí:
- Phía bắc giáp QL 4B
- Phía nam giáp đất RST ông Vũ Văn Tân và đất rừng bà Nguyễn Thị Dung( theo bản đồ năm 1998)
- Phía đông giáp đất HNK ông Đoàn Năng Hùng.
- Phía tây giáp nhà ông Nguyễn Ngọc Dinh xây năm 2010.
Khu đất theo trích đo địa chính có kích thước cạnh như sau: cạnh ABÈGH. Trong đó cạnh AB dài 18,85m; cạnh BE dài 13,58m; cạnh EF dài 6,18m, cạnh GF dài 10,04m; cạch GH dài 2,98m; cạnh AH dài 9,83m cho chị Dương Thị Hằng được quản lí sử dụng; chị Hằng có trách nhiệm liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận QSD Đ theo quy định của pháp luật( có trích đo địa chính khu đất kèm theo).
Áp dụng khoản 1, điều 48 nghị định 181; điểm b,c khoản 3 diều 14, Nghị định 88/2009 của Chính phủ; khoản 1,2 điều 32a* Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011.
3. Chấp nhận yêu cầu của ông Đoàn Năng Hùng và chị Dương Thị Hằng.
Tuyên hủy 1 phần giấy chứng nhận QSD Đ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại thửa 731, tờ bản đồ số 01, đo vẽ 2008 tại Núi Đầu, khối 5, xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn, do UBND huyện Cao Lộc cấp ngày 27/10/2010 cho hộ ông Nguyễn Ngọc Dinh và vợ là Trần Thị Nụ.( trong đó có 34,27m2 bị hủy thuộc quyền quản lí của hộ ông Đoàn Năng Hùng theo giấy chứng nhận QSD Đ do UBND huyện Cao Lộc cấp cho hộ ông Đoàn Năng Hùng ngày 28/3/2005) diện tích 236,7m2 còn lại bị hủy thuộc quyền quản lí, sử dụng của chị Dương Thị Hằng.
4. Về án phí và chi phí định giá.
Áp dụng khoản 3 điều 142 của bộ luật tố tụng dân sự và khoản 4,6; khoản 11 điều 27, khoản 2 điều 30 pháp lệnh về án phí, lệ phí tòa án;
- Ông Đoàn Năng Hùng chịu án phí dân sự có giá nghạch là 1.200.000đ( Một triệu hai trăm nghìn đồng) sung vào ngân sách nhà nước, được khấu trừ vào số tiền ông Hùng đã nộp là 200.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số A A/ 2011, ngày 8/5/2013 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, số tiền còn lại ông Hùng phải nộp tiếp là 1.000.000đ( một triệu đồng).
Ông Đoàn Năng Hùng chịu chi phí định giá là 2.000.000đ(ông Hùng đã nộp)
Chị Dương Thị Hằng phải chịu án phí dân sự cá nghạch giá là 3.700.000đ( chị Hằng đã nộp đủ).
- Ông Nguyễn Ngọc Dinh Phải chịu án phí dân sự có nghạch giá là 30.510.000đ để sung vào ngân sách nhà nước. Được khấu trừ vào số tiền 200.000đ ông Dinh đã nộp tại biên lai số A A/ 2010 ngày 14/12/2011 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tai các điều 6,7 và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND Tối cao Thẩm phán - Chủ tọa
- VKSND Tối cao
- VKSND tỉnh Lạng Sơn
- TAND huyện Cao Lộc
- Chi cục THA huyện
- Các đương sự
- Lưu hồ sơ, TDS Chu Thị Nguyễn Phin
|