Chào bạn, về vấn đề của bạn, Công ty luật Sao Việt xin đưa ra quan điểm giải quyết như sau:
• Vấn đề 1: Người phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ thuế trước đây
Với trường hợp này, do thông tin bạn cung cấp chưa đầy đủ, rõ ràng nên chúng tôi chia làm hai trường hợp như sau:
- Trường hợp 1. Bạn mua lại doanh nghiệp tư nhân.
Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 145 Luật doanh nghiệp 2005 thì: “ sau khi bán doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác mà doanh nghiệp chưa thực hiện, trừ trường hợp người mua, người bán và chủ nợ của doanh nghiệp có thỏa thuận khác”.
Trong trường hợp này, bạn và chủ sở hữu cũ chưa có thỏa thuận gì nên chủ sở hữu cũ sẽ phải chịu trách nhiệm nộp các khoản nợ thuế trên.
- Trường hợp 2. Bạn có quyền sở hữu Công ty theo hình thức nhận chuyển nhượng toàn bộ vốn góp/cổ phần của công ty cũ.
Theo quy định tại Điều 32 Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 1/10/2010 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp thì sau khi nhận chuyển nhượng toàn bộ vốn góp/cổ phần của Công ty cũ thì bạn có quyền sở hữu công ty dưới hình thức Công ty TNHH hữu hạn. Cũng theo quy định này, tại Khoản 4: “ Công ty chuyển đổi đương nhiên kế thừa toàn bộ các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ, gồm cả nợ thuế, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ khác của công ty được chuyển đổi”, như vậy trong trường hợp này bạn là người phải chịu trách nhiệm trước cơ quan thuế về các khoản nợ về thuế trước đây.
• Vấn đề 2: Hành vi của người bán, chuyển nhượng vốn góp/cổ phần có phải là lừa đảo không ?
Căn cứ theo Điều 139 Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung 2009) thì người bán lại doanh nghiệp tư nhân/chuyển nhượng vốn góp hoặc cổ phần cho bạn sẽ bị truy cứu hình sự về hành vi lừa đảo nếu đáp ứng các điều kiện sau:
- Đã cố tình che giấu các thông tin về khoản nợ thuế, cố tình không làm rõ các thông tin này để bạn chấp nhận mua, nhận chuyển nhượng vốn góp hoặc mua, nhận chuyển nhượng với giá cao và;
- Đã chiếm đoạt được tài sản giá trị từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.