Theo cách hiểu thông thường khởi tố vụ án là việc nếu phát hiện một người có dấu hiệu phạm tội thì cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định khởi tố vụ án, nhằm phát hiện tội phạm; ngăn chặn người thực hiện hành vi tấu tán chứng cứ,…
Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
Theo đó 10 tội danh bao gồm:
1. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
2. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội.
3. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
4. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội.
5. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính.
6. Tội hiếp dâm.
7. Tội cưỡng dâm.
8. Tội làm nhục người khác.
9. Tội vu khống.
10. Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Lưu ý:
- Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
- Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Không có gì là không thể.