Ngày 14/4/1999 nguyên đơn (DN Việt Nam) và bị
đơn (DN Nhật Bản) đã ký kết một hợp đồng, theo đó nguyên đơn mua của bị đơn
4.000 MT thép phế liệu. Điều 1 của Hợp đồng quy định số lượng và phẩm chất thực
tế sẽ căn cứ vào biên bản giám định của NKKK tại cảng bốc hàng và biên bản giám
định của Vinacontrol tại cảng dỡ hàng. Trong trường hợp dung sai vượt quá ±5%
so với tỷ lệ kích cỡ đã quy định trong hợp đồng theo biên bản giám định của
Vinacontrol và NKKK (như Điều 1 Hợp đồng đã ghi) thì tỷ lệ vượt quá đó được trả
theo giá 50 USD/MT.
Thực hiện hợp đồng, bị đơn đã giao cho nguyên
đơn 4.018 MT thép phế liệu. Nguyên đơn đã mời Vinacontrol đến làm giám định tại
cảng dỡ hàng. Biên bản giám định của Vinacontrol kết luận:
-
Độ dày lớn
hơn 40mm: 570
MT
-
Độ dày từ
20mm đến 40mm
+
Chiều dài
từ 2.000mm đến 3.000mm: 925
MT
+
Chiều dài
lớn hơn 3.000mm: 180
MT
-
Độ dày từ
6mm đến 19mm: 1.220 MT
-
Chiều rộng
nhỏ hơn 100mm: 1.123 MT
Theo kết quả giám định đó, một phần khối lượng
thép được giao không đúng loại quy định hoặc vượt quá tỷ lệ quy định của hợp
đồng, cụ thể là:
-
Độ dày >40mm
(HĐ không cho phép): 570
MT
-
Độ dày từ
20mm đến 40mm
+
Chiều dài
từ 2.000mm đến 3.000mm: 325 MT
+
Chiều dài >3.000mm
(HĐ không cho phép): 180 MT
-
Chiều rộng
<100mm (HĐ không cho phép): 1.123 MT
Tổng cộng số lượng hàng sai tỷ lệ kích cỡ là 2.198 MT
Dung sai theo hợp đồng 5% là: 4.018 x 5% = 200,9 MT
Số lượng thép sai tỷ lệ kích cỡ
vượt quá 5% theo quy định của hợp đồng là:
2.198 MT – 200,9 MT = 1.997,1 MT
Theo quy định của hợp đồng số thép này được
tính theo giá 50 USD/MT thay cho giá hợp đồng 137 USD/MT.
Số lượng thép bị đơn giao đúng theo quy định
của hợp đồng là:
4.018 MT – 1.997,1 MT = 2.020,9 MT
Số tiền mà nguyên đơn phải trả theo kết quả
giám định thực tế của Vinacontrol là:
1.997,1
MT x 50 USD/MT = 99.855 USD
2.020,9
MT x 137 USD/MT = 276.863,3 USD
CỘNG = 376.718,3
USD
Số tiền mà nguyên đơn đã trả cho bị đơn theo
L/C là: 561.152 USD.
Nguyên đơn đã khiếu nại đòi bị đơn hoàn trả số
tiền 184.433,7 USD (là khoản tiền chênh lệch giữa số tiền nguyên đơn đã trả
theo L/C và số tiền nguyên chỉ phải trả theo thực tế giao hàng: 561.152 USD –
376.718,3 USD = 184.433,7 USD). Do không được bị đơn hoàn trả, nguyên đơn đã
kiện bị đơn trước Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phòng
Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) đòi bị đơn hoàn trả số tiền nói trên.
Trong Văn thư đề ngày 5/11/1999 gửi cho trọng
tài, bị đơn trình bày sự việc như sau:
Công ty X Việt Nam ủy thác cho nguyên đơn nhập
khẩu lô thép phế liệu để cán lại. Trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng, bị
đơn đã thương lượng trực tiếp với Công ty X và giao hàng theo hướng dẫn của
công ty X, đồng thời phù hợp với thỏa thuận.
Lô hàng mà được coi là “thiếu tiêu chuẩn” trên
thực tế đắt hơn loại hàng quy định trong hợp đồng, cho nên công ty X đã quyết
định nhận lô hàng này trên cơ sở thỏa thuận giữa công ty X và bị đơn. Vì thế,
bị đơn không thể hiểu được tại sao nguyên đơn lại khiếu nại về lô hàng này.
Trong Văn thư đề ngày 13/11/1999 gửi trọng tài
và đồng thời gửi bị đơn, nguyên đơn trình bày như sau:
Nguyên đơn không hề biết việc thương lượng và
thỏa thuận giữa bị đơn và công ty X, đồng thời nguyên đơn không nhận được bất
kỳ một thông báo nào của bị đơn và công ty X. Theo hợp đồng ký ngày 14/4/1999,
là một bên đương sự, nguyên đơn kiện bị đơn căn cứ vào các khoản và điều kiện
đã quy định trong hợp đồng. Vấn đề này không liên quan gì đến người thứ ba.
Nguyên đơn đề nghị:
-
Bị đơn
phải thương lượng với công ty X để bồi thường tổn thất cho nguyên đơn.
-
Trong
trường hợp bị đơn không giải quyết được như vậy thì đề nghị trọng tài sẽ xử vụ
kiện vào ngày 5/12/1999.
Sau đó, nguyên đơn đã chủ động sang Nhật để
thương lượng nhưng bị đơn không có thiện chí giải quyết tranh chấp bằng thương
lượng.
Tại phiên xét xử, nguyên đơn đã xuất trình cho
cho trọng tài hai văn thư: văn thư của bị đơn đề ngày 2/12/1999 và văn thư trả
lời của nguyên đơn đề ngày 3/12/1999. trong văn thư ngày 2/12/1999 bị đơn không
chấp nhận bồi thường số tiền hàng giao sai quy cách, với lý do là bị đơn không
đòi được nhà cung cấp bồi thường, số tiền khiếu nại mà nguyên đơn đòi là quá
lớn, không chấp nhận được. là một doanh nghiệp nhỏ và để tránh nguy cơ phá sản,
bị đơn không có khả năng chấp nhận bồi thường cho nguyên đơn. Trong văn thư
ngày 3/12/1999 nguyên đơn hoàn toàn bác bỏ lập luận của bị đơn trình bày trong
văn thư đề ngày 2/12/1999 và kie quyết đòi bồi thường đúng như hợp đồng quy
định.
Nếu là trọng tài, bạn sẽ giải
quyết vụ kiện này như thế nào?