Trong cuộc sống, không phải gia đình nào cũng có thể mang thai tự nhiên, vì thế phương pháp IVF ra đời để giải quyết vấn đề này. Vậy, phương pháp IVF là gì? Làm IVF có bắt buộc phải có giấy đăng ký kết hôn không?
Phương pháp IVF là gì?
IVF là viết tắt của "In Vitro Fertilization", dịch qua tiếng Việt là thụ tinh trong ống nghiệm.
Theo Khoản 1, Khoản 2 Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định:
Thụ tinh trong ống nghiệm là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong ống nghiệm để tạo thành phôi.
Vô sinh là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình 2 - 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn không có thai.
Như vậy, phương pháp IVF (thụ tinh trong ống nghiệm) là phương pháp hỗ trợ noãn và tinh trùng kết hợp với nhau khi không thể mang thai tự nhiên (vô sinh).
Đối tượng nào được phép làm IVF?
Theo quy định tại Điều 3 Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định nguyên tắc áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo như sau:
- Cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa; cặp vợ chồng vô sinh có quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
- Vợ chồng nhờ mang thai hộ, người mang thai hộ, trẻ sinh ra nhờ mang thai hộ được bảo đảm an toàn về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và được pháp luật tôn trọng, bảo vệ.
- Việc thụ tinh trong ống nghiệm, cho và nhận noãn, cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện.
- Việc cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi được thực hiện trên nguyên tắc vô danh giữa người cho và người nhận; tinh trùng, phôi của người cho phải được mã hóa để bảo đảm bí mật nhưng vẫn phải ghi rõ đặc điểm của người cho, đặc biệt là yếu tố chủng tộc.
- Việc thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm phải tuân theo quy trình kỹ thuật; quy định tiêu chuẩn sức khỏe của người được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, mang thai và sinh con do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành.
Như vậy, đối tượng được sử dụng phương pháp IVF là cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân.
Làm IVF có bắt buộc phải có giấy đăng ký kết hôn không?
Theo quy định tại Điều 11 Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định về hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm như sau:
- Cặp vợ chồng vô sinh hoặc phụ nữ độc thân gửi hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện các kỹ thuật này, gồm:
+ Đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo Mẫu số 03 ban hành kèm theo Nghị định 10/2015/NĐ-CP: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/04/04/mau-so-3.doc
+ Hồ sơ khám xác định vô sinh của phụ nữ độc thân hoặc cặp vợ chồng đứng tên trong đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
- Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm phải có kế hoạch điều trị cho cặp vợ chồng vô sinh hoặc phụ nữ độc thân.
Trường hợp không thể thực hiện được kỹ thuật này và không thể có kế hoạch điều trị phải trả lời bằng văn bản, đồng thời nêu rõ lý do.
Đồng thời, vì đối tượng được làm IVF là cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân nên đối với cặp vợ chồng, ngoài các giấy tờ nêu trên các cơ sở thực hiện IVF còn yêu cầu bắt buộc cung cấp giấy đăng ký kết hôn để chứng minh quan hệ vợ chồng.
Người làm IVF phải đáp ứng những yêu cầu gì?
Theo Điều 5 Nghị định 10/2025/NĐ-CP quy định về việc nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi như sau:
- Người nhận tinh trùng phải là người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh mà nguyên nhân vô sinh là do người chồng hoặc là phụ nữ độc thân có nhu cầu sinh con và noãn của họ bảo đảm chất lượng để thụ thai.
- Người nhận noãn phải là người Việt Nam hoặc người gốc Việt Nam và là người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh mà nguyên nhân vô sinh là do người vợ không có noãn hoặc noãn không bảo đảm chất lượng để thụ thai.
- Người nhận phôi phải thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh mà nguyên nhân vô sinh là do cả người vợ và người chồng;
+ Người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh mà vợ chồng đã thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm nhưng bị thất bại, trừ trường hợp mang thai hộ;
+ Phụ nữ độc thân mà không có noãn hoặc noãn không bảo đảm chất lượng để thụ thai.
- Người nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi:
+ Phải có đủ sức khỏe để thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, mang thai và sinh con;
+ Không đang mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhiễm HIV, bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A, B;
+ Không bị bệnh di truyền ảnh hưởng đến thế hệ sau, không bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.
- Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không được cung cấp tên, tuổi, địa chỉ và hình ảnh của người nhận tinh trùng, nhận phôi.
Tóm lại, chỉ có cặp vợ chồng bị vô sinh hoặc phụ nữ độc thân mới được làm IVF.
Quy định chỉ cho phép người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh mà nguyên nhân vô sinh là do cả người vợ và người chồng, hoặc trước đó đã làm IVF nhưng thất bại và phụ nữ độc thân không có noãn hoặc noãn không bảo đảm chất lượng để thụ thai.