Mình thấy nội dung này hay, gửi đến cho các bạn ai đang tìm hiểu vụ việc này:
Có phải ai cũng có thể kiện chính phủ Việt Nam như ông Trịnh Vĩnh Bình không?
Không.
Vì ông Bình kiện theo hiệp định song phương giữa Việt Nam và Hà Lan nên chỉ có hai đối tượng sau mới có thể khởi kiện:
1. Công dân Hà Lan có tài sản đầu tư ở Việt Nam (chính là ông Bình), và
2. Công dân Việt Nam có tài sản đầu tư ở Hà Lan.
Chúng ta không nên nhầm lẫn rằng ông Bình là người Việt Nam. Ông ấy sinh ra ở Việt Nam, mang tên Việt Nam nhưng mang quốc tịch Hà Lan. Điều đó có nghĩa là nếu thay ông Bình bằng một ông da trắng tóc vàng người Hà Lan thì bản chất vụ việc cũng không có gì thay đổi.
Công dân Việt Nam không thể khởi kiện chính phủ Việt Nam theo Hiệp định này cũng như theo những hiệp định tương tự mà Việt Nam ký với các nước khác.
Cơ quan nào có thẩm quyền thụ lý vụ kiện này?
Khi ông Trịnh Vĩnh Bình sử dụng Hiệp định bảo hộ đầu tư song phương Việt Nam – Hà Lan làm cơ sở pháp lý cho vụ kiện của mình, thì hai bên đều bắt buộc phải chấp nhận quyền tài phán của Luật Trọng tài UNCITRAL.
Điều này có nghĩa là, thủ tục để khởi kiện dựa theo điều khoản của hiệp định này phải sử dụng thủ tục tố tụng của Luật Trọng tài UNCITRAL, chứ không bên nào có thể nộp đơn ở một tòa án dân sự của một quốc gia để khởi kiện. (Xem Điều 9 của Hiệp định song phương). Đồng thời, cũng không có bên nào được phép từ chối tham gia vào vụ việc nếu không đưa ra được cơ sở pháp lý cho hành vi đó.
Năm 2003, thông qua các luật sư của mình, ông Trịnh Vĩnh Bình đã nộp đơn tại Viện Trọng tài Phòng Thương mại Stockholm (Arbitration Institute of Stockholm Chamber of Commerce), Thụy Điển, yêu cầu cơ quan này thụ lý hồ sơ và giải quyết tranh chấp về tài sản đầu tư giữa ông và chính phủ Việt Nam, cũng như đòi bồi thường hơn 100 triệu đô-la Mỹ.
Viện Trọng tài Stockholm là một trong số những tổ chức tư nhân có tư cách sáng lập hội đồng trọng tài (arbitral tribunal) và tòa trọng tài quốc tế (international arbitration court) để giải quyết các tranh chấp dựa trên Luật Trọng tài UNCITRAL.
Một tòa trọng tài khác có các hoạt động trong lĩnh vực luật thương mại quốc tế mà chúng ta hay nghe đến là Tòa Trọng tài Thường trực (Permanent Court of Arbitration) ở Hague, Hà Lan.
Trước và sau khi nguyên đơn tiến hành thủ tục sử dụng tòa trọng tài, các bên của một vụ kiện đều có thể thương thảo với nhau và chọn một tòa trọng tài theo ý để thụ lý hồ sơ.
Thủ tục tiến hành vụ kiện ra sao?
Thủ tục của tòa trọng tài (arbitration court) có thể đơn giản và ngắn gọn hơn các thủ tục tố tụng dân sự (civil court) đôi chút. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn pháp lý về tố tụng, chứng cứ, v.v. đều rất tương đồng với các thủ tục ở tòa án dân sự.
Các trọng tài viên (arbitrator) là những “quan tòa tư nhân” được hai bên đồng ý ký hợp đồng làm việc và trả phí. Đa số trọng tài viên đều có học vấn và kinh nghiệm rất phong phú, đặc biệt là về chuyên môn trong các lĩnh vực, ví dụ như luật thương mại và đầu tư quốc tế, nên chi phí cho họ thông thường cũng rất cao.
Ba trọng tài viên C. Mark Baker, Brigitte Stern, Kaj Hobér là những người đã được chọn để xét xử vụ kiện của ông Trịnh Vĩnh Bình tại Viện Trọng tài Stockholm.
Kết quả của vụ kiện năm 2003 ra sao?
Năm 2006, ông Trịnh Vĩnh Bình và chính phủ Việt Nam đã đạt được một thỏa thuận hòa giải ngoài tòa án (settlement agreement), trước khi các trọng tài viên chuẩn bị mang vụ kiện ra xét xử (Thỏa thuận 2006).
Đại diện cho ông Trịnh Vĩnh Bình ở thời điểm này là hãng luật King & Spalding, còn hãng Gide Loyrette Nouel đại diện cho chính phủ Việt Nam.
Ngày 14/3/2007, vụ tranh chấp về tài sản đầu tư ở Việt Nam giữa ông Trịnh Vĩnh Bình và chính phủ Việt Nam chính thức chấm dứt khi Thỏa thuận 2006 được Viện Trọng tài Stockholm phê chuẩn và bắt đầu có hiệu lực thi hành. Ông Bình cũng đồng ý đóng lại vụ kiện chính phủ Việt Nam dựa trên Luật trọng tài UNCITRAL.
Chi tiết về những điều khoản liên quan đến các thỏa thuận giữa ông Bình và chính phủ Việt Nam được hai bên đồng ý bảo mật (confidential settlement). Thế nên, có rất ít thông tin chính thức về những điều khoản mà hai bên đã thỏa thuận – ví dụ như thông tin về mức bồi thường (nếu có), thời gian thi hành các điều khoản, v.v. cho đến khi ông Trịnh Vĩnh Bình một lần nữa đưa chính phủ Việt Nam ra tòa vào năm 2017.
Đâu là cơ sở pháp lý để Trịnh Vĩnh Bình kiện chính phủ Việt Nam năm 2017?
Vào cuối tháng 8/2017, thông tin ông Trịnh Vĩnh Bình tái khởi kiện chính phủ Việt Nam ở một tòa trọng tài quốc tế khác được nhanh chóng lan tỏa trong và ngoài nước.
Theo đó, ông Bình đã nộp đơn tại Tòa Trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế ICC (International Chamber of Commerce – International Arbitration Court) có trụ sở tại Paris, Pháp, và cáo buộc chính phủ Việt Nam đã vi phạm Thỏa thuận 2006, cũng như yêu cầu được bồi thường 1,25 tỷ đô-la Mỹ.
Năm 2003, ông Bình đã dựa vào điều khoản của Hiệp định song phương về bảo hộ đầu tư để kiện chính phủ Việt Nam. Nhưng đối với vụ việc năm 2017, ông đã dùng chính Thỏa thuận 2006 làm cơ sở pháp lý cho đơn kiện của mình.
Ở đây, ông Trịnh Vĩnh Bình đã cáo buộc phía chính phủ Việt Nam đã ký Thỏa thuận 2006 mà không thi hành toàn bộ nghĩa vụ chiếu theo đó, nên bắt buộc ông phải nộp đơn kiện.
Cũng như bất kỳ một bản hợp đồng dân sự nào, hai phía của Thỏa thuận 2006 đã tình nguyện ký kết và đồng ý thực hiện các nghĩa vụ của mình. Vì vậy, khi một bên cho rằng phía bên kia đã vi phạm hợp đồng thì họ có thể khởi kiện để đòi bồi thường hoặc yêu cầu tòa án ra lệnh thực thi hợp đồng.
Tại sao ở vụ kiện thứ hai này một toà trọng tài ở Paris lại có thẩm quyền giải quyết?
Vì các luật sư của ông Bình trong vụ kiện năm 2017 đã mở hồ sơ tại Tòa Trọng tài ICC, nên chúng ta có thể dùng điều luật của chính tổ chức tài phán này để suy luận về thẩm quyền thụ lý hồ sơ của toà.
Theo luật của Tòa Trọng tài ICC thì hội đồng trọng tài (arbitral tribunal) của họ chỉ giải quyết những tranh chấp nào mà các bên liên quan đã thiết lập điều khoản về việc sử dụng Tòa ICC làm tòa trọng tài (arbitration court) và đưa vào hợp đồng hoặc thỏa thuận của họ từ trước đó. Thông tin này thường nằm trong điều khoản đồng ý sử dụng tòa trọng tài làm phương pháp giải quyết khi xảy ra tranh chấp – arbitration clause – của nhiều hợp đồng, thỏa thuận dân sự.
Nếu bản hợp đồng hoặc thỏa thuận trước đó của hai bên không có điều khoản này, thì cả hai đều phải đồng ý (consent) với việc sử dụng Tòa Trọng tài ICC khi tranh chấp xảy ra.
Do Tòa Trọng tài ICC đã thụ lý hồ sơ của ông Trịnh Vĩnh Bình và mở phiên tòa xét xử vào ngày 21/8/2017, chúng ta có thể nhận định rằng hoặc Thỏa thuận 2006 có ghi rõ điều khoản đồng ý sử dụng Tòa ICC để giải quyết tranh chấp, hoặc chính phủ Việt Nam đã đồng ý dùng tổ chức tài phán này sau khi đơn kiện được nộp.
Tuy nhiên, khả năng Thoả thuận 2006 có ghi rõ điều khoản này là cao hơn, vì lý do án phí.
Án phí của Tòa ICC là khá cao (gần 700 nghìn đô-la nếu chỉ sử dụng một trọng tài viên và 1,78 triệu đô-la nếu sử dụng hội đồng trọng tài với ba thẩm phán cho một hồ sơ yêu cầu 1,25 tỷ đô-la tiền bồi thường như của ông Bình), và cả hai phe đều phải tự ứng ra trước một nửa.
Án phí của Tòa trọng tài ICC tỉ lệ thuận với số tiền bồi thường mà nguyên đơn yêu cầu. Yêu cầu càng nhiều tiền bồi thường, án phí sẽ càng cao.
Thế nên, có lẽ lập luận thiên về phía Thỏa thuận 2006 đã có sẵn điều khoản này có phần nhỉnh hơn, vì khó mà thuyết phục một bên đồng ý trả một số tiền án phí lớn như vậy sau khi đơn kiện đã được nộp, trong khi họ có thể thương thảo để sử dụng một tòa trọng tài khác.
Khi nào Toà ICC Paris mới ra phán quyết?
Sau một tuần tổ chức xét xử, hội đồng trọng tài của Tòa ICC đã kết thúc phần nghe thẩm vào cuối tháng 8/2017. Nếu không xảy ra tình huống đặc biệt – ví dụ như hội đồng này yêu cầu thêm thời gian xử lý – thì trong vòng tối đa sáu tháng, một phán quyết sẽ được công bố.
Nguồn: Luật Khoa Tạp chí