Xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải tốn nhiều thời gian chứ không phải nói sa thải là sa thải ngay (giống như trên phim ảnh) đâu ạ. Luật lao động của Việt Nam quy định vấn đề này rất chặt chẽ:
- Có hành vi vi phạm Điều 126 Bộ luật lao động 2012
- Hành vi này phải được quy định trong nội quy lao động của công ty
- Tiến hành đúng trình tự (họp xét kỷ luật, có biên bản, thành phần người tham gia, ký biên bản....) Cụ thể xem Điều 123 Bộ luật lao động 2012 và Điều 30 Nghị định 05/2015/NĐ-CP
Chỉ cần vi phạm 1 điều kiện thì dù người lao động có sai thật thì quyết định sa thải cũng không được công nhận.
Còn việc đơn phương châm dứt hợp đồng lao động thì phải thỏa mãn 2 điều kiện:
1. Lý do chấm dứt:
a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;
b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.
Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;
c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;
d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật LĐ
2. Thời hạn báo trước: Xem Khoản 2 Điều 38 Bộ luật lao động
Để cho người lao động nghỉ việc ngay khó lắm. Trừ khi chấp nhận đơn phương trái luật và chịu trách nhiệm theo Bộ luật LĐ:
Điều 42. Nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.
3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.