Nếu bạn muốn được tư vấn về vấn đề chia tài sản là bất động sản thì về vấn đề này, trước tiên cần làm rõ là hiện tại giấy tờ đang đứng tên vợ chồng bạn đúng không? Trường hợp tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân và đứng tên vợ chồng bạn như thế thì về mặt luật pháp mảnh đất đó thuộc tài sản chung của vợ chồng bạn. Cho dù nguồn gốc đất là của má vợ, hai vợ chồng chỉ đứng tên trên giấu tờ để hợp thức hóa việc xây nhà nhưng nếu có tranh chấp thì dựa trên các giấy tờ để giải quyết. Khi đó, ai là người đứng tên trên giấy chứng nhận được xác định là chủ sở hữu hợp pháp, trừ trường hợp khác.
Sau khi xác định xong chủ sở hữu tài sản là 2 vợ chồng thì chia tài sản sẽ thỏa thuận hoặc chia theo pháp luật là chia đôi, mỗi người một nửa theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định:
"Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn
1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này."
Theo quy định trên, việc chia tài sản có thể tự thỏa thuận, nhưng nếu không thể tự thỏa thuận được thì nhờ tới Tòa án để chia.